Tranh chấp về quyền sử dụng đất trong quan hệ ly hôn
Ngày gửi: 12/02/2018 lúc 23:02:24
Câu hỏi:
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
1. Về vấn đề Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Luật Hôn nhân và gia đình quy định tài sản chung vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân.
Theo nguyên tắc, tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng phải được đăng ký và ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Trên thực tế, chỉ đối với những tài sản có giá trị lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống gia đình thì mới ghi nhận tên cả hai vợ chồng. Đối với những tài sản cũng có giá trị (xe moto, ô tô, tàu thuyền…) thì thường chỉ có tên vợ hoặc chồng.
Do thông tin bạn cung cấp chưa thật sự rõ ràng về vấn đề việc giấy tờ trước kia chỉ đứng tên mẹ bạn là những loại giấy tờ gì? Hay sau kiểm nghiệm thì có tên cả hai vợ chồng là như thế nào. Ở đây, chúng tôi diễn giải rằng khi kê biên tài sản để làm thủ tục ly hôn thì Tòa án xác định nhà cửa đó là tài sản chung vợ chồng, nên có tên cả bố và mẹ bạn. Việc này là hoàn toàn có căn cứ bởi nếu tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân được coi là tài sản chung vợ chồng trừ trường hợp tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng mà không có thỏa thuận xác nhập vào tài sản chung vợ chồng. Ta cần chia trường hợp như sau:
– Trường hợp tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất là tài sản chung vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân: Trong trường hợp mẹ bạn muốn làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với bất động sản đứng tên cả bố và mẹ bạn thì cần phải làm thủ tục ly hôn để chia tài sản này. Bởi theo quy định của Luật Đất đai thì chỉ khi đất đó là đất không có tranh chấp mới đáp ứng điều kiện cơ bản để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
– Trường hợp tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ hoặc chồng: pháp luật có quy định: “trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng…nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng”. Như vậy, nếu chứng minh được đây là tài sản riêng mà mẹ bạn được tặng cho, thừa kế riêng thì mẹ bạn hoàn toàn có quyền đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong trường hợp cha của bạn muốn đứng tên thì việc làm đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ không được chấp nhận tại thời điểm mà mảnh đất đang có tranh chấp. Trong trường hợp mảnh đất đã được chia theo thủ tục chia tài sản trong quan hệ ly hôn thì cha bạn chỉ có quyền đứng tên trong Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc phần tài sản được chia theo quyết định trong bản án ly hôn của tòa án. Trường hợp mảnh đất đó mẹ bạn đã được Cấp Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng cha bạn lại làm đơn xin đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó thì đơn của cha bạn sẽ không được chấp nhận. Tuy nhiên, khi mâu thuẫn cao, cha bạn vẫn có quyền gửi đơn kiện đến Tòa án cấp quận, huyện, thành phố thuộc Tỉnh nơi có bất động sản để kiện đòi quyền đứng tên đối với mảnh đất nếu có căn cứ xác đáng.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155
2. Vấn đề tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất:
Việc cha bạn đứng tên tài khoản Ngân hàng không ảnh hưởng đến quyền lợi mà mẹ bạn được hưởng đối với khoản tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
– Trường hợp bất động sản được chứng minh là tài sản chung vợ chồng: theo quy định của pháp luật, Khoản 1 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định việc chia tài sản do vợ chồng thỏa thuận, trường hợp không thỏa thuận được thì tài sản chung vợ chồng được chia đôi nhưng căn cứ vào một số điều kiện cụ thể (Khoản 2 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình 2000). Như vậy, trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất và có bồi thường một khoản tiền, thì khoản tiền đó được xác định tương đương với giá trị quyền sử dụng đất là tài sản chung của hai vợ chồng. Nên mẹ bạn vẫn nhận được 50% số tiền bồi thường trong trường hợp cha mẹ bạn không thỏa thuận được về việc chia tài sản.
– Trường hợp bất động sản được chứng minh là tài sản riêng của mẹ bạn: theo quy định của pháp luật, tài sản riêng của vợ, chồng sau khi ly hôn thì thuộc về người ấy. Vì vậy, trường hợp đất bị thu hồi là tài sản riêng của mẹ bạn thì tiền bồi thường của Nhà nước khi thu hồi đất mẹ bạn sẽ được nhận 100%.
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 024.6294.9155 để được giải đáp.
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam
Gửi yêu cầu tư vấn
Chi tiết xin liên hệ:
Tổng đài: 024.6294.9155
Hotline: 0984.988.691