Trộm tiền qua thẻ ngân hàng
Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24
Câu hỏi:
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
1. Căn cứ pháp lý
– Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009
2. Nội dung tư vấn
Căn cứ Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009 quy định tội trộm cắp tài sản như sau:
"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”.
Các yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản như sau:
– Về chủ thể: người thực hiện hành vi phạm tội phải đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 1999, không mắc các bệnh làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình.
– Khách thể: Tài sản là tài sản của chủ sở hữu hoặc người đang chiếm hữu tài sản.
– Về mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản: là hành vi chiếm đoạt tài sản một cách trái phép. Hành vi trộm cắp là hành vi lén lút, che giấu việc chiếm đoạt tài sản. Hành vi của tội này có thể không lén lút, nhưng người phạm tội có ý thức che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản của đối với chủ sở hữu hoặc người chiếm giữ tài sản.
– Mặt chủ quan: mục đích chiếm đoạt tài sản là yếu tố bắt buộc. Người phạm tội có lỗi cố ý đối với hành phạm tội.
Chiếu theo quy định trên vào trường hợp của bạn con bạn, người này nhặt được điện thoại, biết được một số thẻ ATM và tự ý chuyển tiền từ thẻ của người khác vào tài khoản của mình nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, tổng số tiền là 6.100.000 đồng như vậy có hành vi trộm cắp tài sản. Mặt khác, theo quy đinh Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 thì trường hợp này không thuộc trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại; do đó nếu có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009.
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam
Gửi yêu cầu tư vấn
Chi tiết xin liên hệ:
Tổng đài: 024.6294.9155
Hotline: 0984.988.691