Hệ thống pháp luật

Trường hợp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL24387

Câu hỏi:

Mấy chục năm cách đây, bố cháu có mua một vùng đất khoảng 1500m2 ở Long An nhưng bố cháu lại ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng hồi đó người khác tỉnh không được đứng tên sổ đỏ dưới tỉnh nên nhờ bạn của mẹ cháu đứng tên. Nay cháu muốn hỏi: 1. Người thành phố đã được đứng tên khoảng đất ấy ở Long An hay chưa? 2. Cần những điều kiện nào để đứng tên được? Hơn nữa, tối thiểu bao nhiêu tuổi mới có thể đứng tên khoảng đất ấy ở Long An? (Cháu năm nay chỉ vừa 12 tuổi) .

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

Luật đất đai năm 2013

2. Nội dung tư vấn

Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 169 Luật đất đai năm 2013 thì hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phụ thuộc vào nơi cư trú, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 191 và Điều 192 của Luật đất đai năm 2013.

Theo quy định Khoản 3 và Khoản 4 Điều 191 Luật đất đai năm 2013 như sau:

“Điều 191. Trường hợp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất

3. Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa.

4. Hộ gia đình, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, nếu không sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đó.”

Và theo quy định tại Điều 192 Luật đất đai năm 2013 như sau:

“Điều 192. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện

1. Hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống xen kẽ trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng nhưng chưa có điều kiện chuyển ra khỏi phân khu đó thì chỉ được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất rừng kết hợp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản cho hộ gia đình, cá nhân sinh sống trong phân khu đó.

2. Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ thì chỉ được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ đó.

3. Hộ gia đình, cá nhân là dân tộc thiểu số sử dụng đất do Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước thì được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm, kể từ ngày có quyết định giao đất theo quy định của Chính phủ.”

Như vậy, nếu bạn không thuộc các trường hợp nêu tại Khoản 3 và khoản 4 Điều 191 và Điều 192 nêu trên thì sẽ được nhận chuyển quyền sử dụng đất không phụ thuộc vào nơi cư trú hay đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nơi khác mà mình không cư trú.

Theo Luật Đất đai năm 2013 thì không có quy định về điều kiện để đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử đất mà chỉ có quy định tại Điều 5 và Điều 97 Luật Đất đai năm 2013 về người sử dụng đất bao gồm hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài và đối tượng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Ngoài ra, về việc ghi thông tin về người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 5 Thông tư 23/2014/TT-BTNMT như sau: nếu cấp cho cá nhân trong nước nước thì ghi "Ông" (hoặc "Bà"), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân (nếu có), địa chỉ thường trú. Giấy tờ nhân thân là Giấy chứng minh nhân dân thì ghi "CMND số:…"; trường hợp Giấy chứng minh quân đội nhân dân thì ghi "CMQĐ số:…"; trường hợp chưa có Giấy chứng minh nhân dân thì ghi "Giấy khai sinh số….". Do đó, theo thông tin trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn có trường hợp chưa có giấy chứng minh nhân dân, chính tỏ pháp luật không phân biết về độ tuổi, năng lực hành vi dân sự để được đứng tên trên giấy chứng nhận mà chỉ quy định cá nhân nói chung đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất. Việc đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thể làm phát quyền và nghĩa vụ trong một số quan hệ dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất. Do đó, đối với người từ sáu tuổi đến dưới 18 tuổi thì năng lực hành vi dân sự được xác định theo quy định tại Điều 20 luật dân sự năm 2005 như sau:

Điều 20. Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi

1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác.

2. Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

Cho nên, bạn đủ đủ kiện để đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được hình thành theo hình thức tặng, cho , thừa kế… nhưng khi làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bạn thì phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của bạn đồng ý. Người đại diện theo pháp luật của bạn chính là bố mẹ bạn nếu không thuộc các trường hợp bị hạn chế làm người đại diện theo pháp luật của bạn.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn