Hệ thống pháp luật

Vấn đề pháp lí liên quan đến chiếm đoạt tài sản của chủ hụi

Ngày gửi: 12/02/2018 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL41223

Câu hỏi:

Tôi nhờ người khác chơi hụi dùm(số tiền trên 18 triệu) ,giờ người đó nói chủ hụi nói giờ không có tiền chi trả lại.muốn làm gì thì làm (người đó đang làm trong một bệnh viện). Vậy cho tôi xin hỏi, nếu trường hợp như vậy, tôi có thể nhờ pháp luật xử lý được không? Xin cho tôi hướng giải quyết.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Chơi hụi là một hình thức huy động vốn trong dân gian của Việt Nam và thường do phụ nữ thwucj hiên. Tuy nhiên, đến Bộ luật dân sự năm 2005 vấn đề này mới được pháp luật Việt Nam công nhận, đưa vào trở thành một vấn đề được pháp luật điều chỉnh, bảo vệ quyền lợi. Vấn đề này được cụ thể hóa tại Điều 479 Bộ luật dân sự 2005 và được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định 144/2006/ND-CP .Và theo Căn cứ vào Nghị định 144/2006/NĐ-CP  thì chủ hụi có trách nhiệm thanh toán tiền hụi cho các hội viên đã góp hụi và một trong những nghĩa vụ của bên mượn tài sản (chủ họ) là "trả lại tài sản mượn đúng thời hạn; nếu không có thoả thuận về thời hạn trả lại tài sản thì bên mượn phải trả lại tài sản ngay sau khi mục đích mượn đã đạt được" theo khoản 3 Điều 514 Bộ luật dân sự 2005.

Trong trường hợp chủ hụi không trả tiền cho các hụi viên thì chủ hụi có thể bị khởi kiện ra tòa theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. 

Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 ( sửa đổi bổ sung năm 2009), tại Điều 140 đã quy định cụ thể về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: 

“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

đ) Tái phạm nguy hiểm;

e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này".

>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155

Lợi dụng Facebook để chiếm đoạt tài sản

 Như vậy, theo những quy định của pháp luật về vấn đề này, trong trường hợp mà chủ hụi dùng thủ đoạn để không trả tiền thì bạn có thể tố cáo người đó đến cơ quan công an cấp huyện về hành vi lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản. Và theo như bạn phản ánh thì số tiền mà chủ hụi chiếm đoạt là 18 triệu đồng, với số tiền đó có thể khởi tố về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự 1999.

Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155   để được giải đáp.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn