Xác định tài sản chung tài sản riêng của hai vợ chồng
Ngày gửi: 01/04/2019 lúc 11:31:12
Câu hỏi:
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
1. Căn cứ pháp lý
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014
2. Nội dung tư vấn
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:
Điều 29. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.
Việc xác định tài sản có trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng hoàn toàn phụ thuộc vào sự đồng tình của cả hai bên, không phải căn cứ người thực hiện giao dịch hay người đứng tên trên các giấy tờ mà phải căn cứ nguồn gốc tạo dựng tài sản đó. Vì vậy, căn nhà tạo lập trong thời kỳ hôn nhân, nếu do công sức đóng góp của cả hai vợ chồng là tài sản chung. Nhưng theo thông tin bạn cung cấp, chồng của bạn đã dành dụm tiền và tự ý cất nhà, trong trường hợp này thì tài sản này vốn được thành lập không hề có sự đóng góp của bạn mặc dù đang trong thời kỳ hôn nhân, liên quan đến vấn đề tìa sản chung, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cũng quy định:
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân qua tổng đài: 024.6294.9155
Điều 31. Giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng
Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng.
Vậy căn nhà này hoàn toàn không làm ảnh hưởng tới cuộc sống của gia đình trước và sau khi có tài sản, hơn nữa theo thông tin bạn cung cấp thì hai vợ chồng trong đời sống chung thì bạn và chồng có những khoản chi trả khác nhau đều nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu trong gia đình. Theo điều 30 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì:
Điều 30. Quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình
1. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
2. Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.
Như vậy, những thông tin bạn cung cấp liên quan đến giao dịch, cách chi tiêu cho gia đình của cả hai vợ chồng là hoàn toàn dựa vào thỏa thuận và sự đồng tình của cả hai bên, xét về mặt pháp luật, pháp luật tôn trọng việc tự quyết trong vấn đề giao dịch liên quan của vợ chồng nhằm đáp ứng cuộc sống gia đình, chồng của bạn vẫn được coi là đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của gia đình, hơn thế nữa giao dịch mua bán đất đai và cất nhà cửa trong trường hợp này hoàn toàn là giao dịch riêng bằng tài sản riêng của chồng bạn nên quyền sở hữu của riêng chồng bạn được coi là hợp pháp nếu hai vợ chồng không có thỏa thuận nào khác.
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam
Gửi yêu cầu tư vấn
Chi tiết xin liên hệ:
Tổng đài: 024.6294.9155
Hotline: 0984.988.691