ỦY BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 183/BC-UBND | Hải Phòng, ngày 15 tháng 09 năm 2016 |
SƠ KẾT 5 NĂM THỰC HIỆN QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC GIAI ĐOẠN 2011-2020 THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1. Những kết quả đạt được
- Thực hiện Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 và Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 về phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Quyết định số 2098/QĐ-UBND ngày 06/12/2010 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2020 và Quyết định 1640/QĐ-UBND ngày 02/10/2012 về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2020.
- Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng, giai đoạn 2011-2020 đã định hướng và làm cơ sở để các Sở, ban, ngành, các địa phương triển khai chỉ đạo, điều hành, hoạch định các cơ chế, chính sách của địa phương. Thành phố đã lựa chọn được các ngành kinh tế mũi nhọn để ưu tiên đào tạo, phát triển nhân lực thành phố phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng chuyển dịch lao động ngành nông nghiệp sang lao động ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nhân lực thành phố đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, sức khỏe, thể lực, phẩm chất đạo đức, tỷ lệ đào tạo đạt 76%, trong đó lao động qua đào tạo đạt 54%. Chất lượng đào tạo ngày càng được nâng cao, nhân lực qua đào tạo nghề bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chiến lược phát triển kinh tế biển nói riêng của thành phố và đất nước.
- Phát triển nhân lực thành phố đã tính đến nhu cầu của xã hội, phối hợp chặt chẽ giữa việc đào tạo với sử dụng nhân lực qua đào tạo, tỷ lệ có việc làm hoặc tự tạo việc làm luôn ở mức cao, lao động sau đào tạo cơ bản được thị trường chấp nhận, giai đoạn 2012-2015 đã giải quyết việc làm cho 52.000 lượt lao động, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm còn 4%. Bước đầu hình thành thị trường lao động sẵn sàng hội nhập vào thị trường lao động khu vực. Nhiệm vụ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đã được lồng ghép trong kế hoạch hàng năm của thành phố; thành phố đã thực hiện cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, triển khai Đề án đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài, trong đó chú trọng đối tượng là cán bộ khoa học và công nghệ trong các tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
- Thành phố đã chỉ đạo bằng nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng nhân lực, tăng cường bố trí vốn ngân sách nhà nước để đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất và đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng viên. Để thu hút các nguồn lực phát triển nhân lực, Hội đồng nhân dân thành phố đã ban hành Nghị quyết số 07/2013/NQ-HĐND ngày 25/7/2013 về nhiệm vụ, giải pháp, cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa thể thao trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013-2016, định hướng đến 2020 nhằm khuyến khích đẩy mạnh xã hội hóa.
- Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý do Ủy ban nhân dân thành phố quản lý đã được các Sở, ban, ngành, đơn vị liên quan triển khai thực hiện hàng năm. Công tác quy hoạch cán bộ khoa học công nghệ đã được các cấp chính quyền, các ngành và các tổ chức trên địa bàn thành phố quan tâm thực hiện và mang lại kết quả tương đối tốt và dần đi vào nề nếp; thành phố đã ban hành và thực hiện một số cơ chế, chính sách sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đối với những cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ chuyên môn cao, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát triển nhân lực khoa học và công nghệ.
- Công tác quy hoạch nhân lực lao động kỹ thuật đã được triển khai thực hiện thông qua quy hoạch mạng lưới dạy nghề, tuyển sinh học nghề, xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề, kiểm định chất lượng dạy nghề. Kết quả đã gia tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo, chú trọng đào tạo nghề chất lượng cao ứng dụng kỹ thuật công nghệ vào công việc; có ý thức tổ chức kỷ luật, có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn, được thị trường chấp nhận.
- Công tác phát triển giáo dục các cấp học từ mầm non đến trung học phổ thông làm nền tảng đào tạo nhân lực cho thành phố đã được quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện. Thành phố đã xây dựng Chương trình hành động của Ban Thường vụ Thành ủy thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Bên cạnh việc triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011 - 2020 thành phố cũng đang đồng thời thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 11/4/2008 của Ban Thường vụ Thành ủy và Nghị quyết số 04/2008/NQ-HĐND ngày 22/4/2008 của Hội đồng nhân dân thành phố về một số chủ trương, giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố đến năm 2010, định hướng 2020, đó là những điều kiện thuận lợi để các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng, giai đoạn 2011 - 2020 trên địa bàn thành phố. Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Kế hoạch số 2144/KH-UBND ngày 03/4/2014 về triển khai thực hiện Kết luận số 07-KL/TU ngày 05/12/2013 của Ban Thường vụ Thành ủy về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 11/4/2008 của Ban Thường vụ Thành ủy về một số chủ trương, giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố đến năm 2010, định hướng 2020; bổ khuyết một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đến năm 2020.
2. Một số tồn tại hạn chế
- Trong quá trình triển khai thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch phát triển nhân lực, do thời gian xây dựng quy hoạch ngắn (chưa đến 02 tháng) triển khai vào thời điểm cuối năm 2010, dẫn đến các bước công việc lập quy hoạch chưa được thực hiện đầy đủ (không đủ thời gian thu thập các số liệu trong giai đoạn 2000-2010 và triển khai các công việc: Khảo sát thực tế, hội thảo lấy ý kiến chuyên gia, xây dựng bản đồ quy hoạch ...). Nhiều căn cứ pháp lý để xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực mới chỉ là dự thảo, chưa được ban hành chính thức như: Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2011-2020; Chiến lược Phát triển giáo dục đến năm 2020; Chiến lược phát triển dạy nghề đến năm 2020; Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 14, Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội Hải Phòng giai đoạn 2011-2015... chưa có Quy hoạch tổng thể phát triển nhân lực của cả nước và Quy hoạch phát triển nhân lực của các ngành kinh tế-xã hội nên khiến cho định hướng phát triển nhân lực của thành phố có thể chưa được chuẩn xác. Mặt khác thành phố triển khai các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục có nhiều khó khăn, thách thức và những biến động khó lường cũng đã tác động không nhỏ đến việc lập và triển khai thực hiện quy hoạch trong thời điểm quốc tế hóa, toàn cầu hóa và nhất là trong bối cảnh nền kinh tế của cả nước và thành phố đang hội nhập sâu với kinh tế thế giới thì nhân lực của thành phố chưa đáp ứng yêu cầu do thiếu tính chuyên nghiệp và kỹ năng nghề, đặc biệt là thiếu kiến thức chuyên môn ở tầm quốc tế.
- Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin dự báo nhu cầu nhân lực của thành phố, kết nối với hệ thống dữ liệu, thông tin dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia, việc tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống thông tin dự báo nhu cầu nhân lực của thành phố đảm bảo tính kết nối, thông suốt về thông tin giữa các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân đến nay vẫn chưa được triển khai.
- Đề xuất quy hoạch sử dụng quỹ đất ưu tiên cho các trường đại học, cao đẳng, trung cấp trên địa bàn thành phố đáp để đảm bảo yêu cầu về quy mô, chất lượng và phù hợp với đặc thù của từng ngành đào tạo chưa được thực hiện.
- Cơ cấu nguồn nhân lực ngành y tế còn chưa hợp lý, phân bố không đồng đều giữa các tuyến, chất lượng còn chưa tương xứng với vị thế trung tâm vùng duyên hải Bắc bộ; tỷ lệ dược sĩ đại học/bác sĩ còn thấp. Tại các bệnh viện tuyến huyện hạng II không thu hút được bác sĩ, phải sử dụng y sĩ vào công tác khám chữa bệnh dẫn đến tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến trên. Tỷ lệ điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên/bác sĩ ở cơ sở khám chữa bệnh còn thấp đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh.
- Thiếu cán bộ đầu ngành ở nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ, thiếu cán bộ giỏi về khoa học quản lý và chuyên gia công nghệ có trình độ cao. Có sự mất cân đối về ngành nghề đào tạo; đội ngũ công nhân kỹ thuật thiếu cả về chất lượng và số lượng.
- Cơ cấu các nghề đào tạo chưa hợp lý, chênh lệch cung - cầu lao động của giữa các ngành còn lớn, nhiều doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động trong khi các cơ sở dạy nghề lại không có học sinh theo học. Công tác tuyển sinh học nghề còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là do tác động của khủng hoảng kinh tế.
3. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế
- Một số cấp, ngành chưa thật sự chủ động, tích cực trong việc rà soát, đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, khoa học công nghệ, lao động kỹ thuật và trên cơ sở quy định về tổ chức, bộ máy, biên chế, nhu cầu, dự báo phát triển để xây dựng, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực chất lượng cao cho cấp, ngành mình. Chưa có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học và công nghệ; chưa có chính sách hỗ trợ các tổ chức khoa học và công nghệ đào tạo, đào tạo lại nhân lực.
- Chính sách lương và phụ cấp lương cho cán bộ ngành y tế còn nhiều bất cập, phụ cấp nghề nghiệp quá thấp, nhất là khu vực hải đảo, vùng xa, vùng khó khăn, lĩnh vực y tế dự phòng và y tế cơ sở. Điều kiện làm việc của phần lớn cán bộ y tế còn nhiều khó khăn do cơ sở vật chất thiếu thốn, trang thiết bị chưa đủ, chưa đảm bảo. Mô hình tổ chức hệ thống y tế chưa ổn định, nhất là hệ thống y tế cơ sở và y tế dự phòng.
- Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục và đào tạo (bao gồm các cơ sở giáo dục nghề nghiệp) chưa hình thành. Việc giao chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo chưa có sự gắn kết, thiếu thông tin dự báo nguồn nhân lực, thông tin về thị trường lao động. Tính quy hoạch, kế hoạch về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức còn nhiều bất cập. Nguồn vốn đầu tư cho nâng cao chất lượng nhân lực, phát triển các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học còn hạn chế. Thiếu chủ động, tích cực trong hợp tác trong nước, quốc tế trong lĩnh vực đào tạo phát triển nhân lực chất lượng cao. Đến nay nhiều Sở, ngành vẫn chưa hoàn thành quy hoạch ngành, lĩnh vực mình để làm cơ sở cho các địa phương, đơn vị xây dựng đề án hoặc quy hoạch nhân lực của địa phương, đơn vị.
- Cơ chế chính sách chưa khuyến khích được học sinh vào học nghề, mức thu học phí thấp nên điều kiện để cho học sinh thực hành rèn luyện kỹ năng hạn chế; các doanh nghiệp chưa sẵn sàng tham gia vào quá trình đào tạo. Nhận thức của xã hội còn chưa đầy đủ, tư tưởng trọng bằng cấp vẫn còn nặng nề; công tác tuyên truyền còn chưa thường xuyên, nội dung và hình thức tuyên truyền còn chưa phong phú. Ngân sách nhà nước đầu tư cho dạy nghề còn hạn hẹp, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
4. Giải pháp khắc phục những tồn tại hạn chế
- Để khắc phục những tồn tại, hạn chế đã nêu ở trên, Thành phố đã chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án, dự án cụ thể phát triển nhân lực được nêu trong Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng, giai đoạn 2011 - 2020. Lồng ghép các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển nguồn nhân lực vào Chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của các Sở, ngành, địa phương, đơn vị.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội; thay đổi quan điểm, hành động và tâm lý xã hội tạo động lực phát triển nhân lực của thành phố; xác định phát triển nhân lực chất lượng cao là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội.
- Hoàn thành và đẩy nhanh tiến độ lập, rà soát, điều chỉnh bổ sung các quy hoạch ngành, lĩnh vực và các địa phương, quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030, trong đó có các đề xuất về nhà ở cho lao động trong các khu, cụm công nghiệp.
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin dự báo nhu cầu nhân lực của địa phương, kết nối với hệ thống dữ liệu, thông tin dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia. Hoàn thiện Đề án về Xây dựng và triển khai đồng bộ cơ chế, chính sách đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực chất lượng cao trên địa bàn thành phố trình Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt để làm cơ sở cho các cấp, ngành, địa phương, đơn vị triển khai thực hiện.
- Thực hiện Chương trình hành động của Ban Thường vụ Thành ủy thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Phối hợp với các Bộ, ngành trong việc phê duyệt các chương trình, dự án trọng điểm phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển nhân lực của địa phương; rà soát, hoàn chỉnh quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo trên địa bàn thành phố, bảo đảm phù hợp với quy hoạch mạng lưới chung các cơ sở đào tạo, dạy nghề trong cả nước. Triển khai có hiệu quả Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn (Đề án 1956) trên địa bàn thành phố.
- Tổng hợp, đánh giá và dự báo các vấn đề về lao động - việc làm trên địa bàn thành phố; tính toán, dự báo, xác định nhu cầu lao động kỹ thuật hàng năm cho từng lĩnh vực, ngành, nghề và toàn thành phố. Tổ chức điều tra, khảo sát về lao động - việc làm trên địa bàn thành phố, công bố công khai kết quả điều tra trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và các đối tượng có nhu cầu tìm hiểu, nắm bắt cơ hội học tập, tìm việc hoặc tuyển dụng lao động.
- Rà soát, đánh giá, phân loại đội ngũ, định hướng nghiên cứu, phát triển, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo phát triển nhân lực khoa học công nghệ ở ngành, đơn vị và chung cho toàn thành phố. Đề xuất cơ chế, chính sách, hình thức, phương pháp, cấp độ đào tạo phù hợp.
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin dự báo nhu cầu nhân lực của thành phố, kết nối với hệ thống dữ liệu, thông tin dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia. Tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống thông tin dự báo nhu cầu nhân lực của thành phố đảm bảo tính kết nối, thông suốt về thông tin giữa các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân.
- Chỉ đạo các cơ sở đào tạo thực hiện tốt chủ trương tự chủ trong tuyển sinh và đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời rà soát điều chỉnh quy mô và ngành nghề đào tạo cho phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực của địa phương và nhu cầu xã hội.
- Ưu tiên các nguồn lực đầu tư cho phát triển nhân lực thông qua các chương trình; dự án của Quy hoạch. Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách khuyến khích đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo theo Nghị quyết số 07/2013/NQ-HĐND ngày 25/7/2013 của Hội đồng nhân dân thành phố. Ưu tiên quỹ đất cho phát triển các cơ sở giáo dục và đào tạo theo đúng định hướng quy hoạch đã đề ra.
1. Những thuận lợi
Nhận thức sâu sắc về vị trí vai trò nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, Thành ủy Hải Phòng đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân thành phố cùng các cơ quan liên quan tập trung nghiên cứu, phân tích làm rõ tình hình phát triển nhân lực của thành phố, trong đó đặc biệt quan tâm đến nhân lực chất lượng cao. Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TU về “Một số chủ trương, giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố đến năm 2010, định hướng đến 2020”, đây là cơ sở quan trọng để xây dựng quy hoạch phát triển nhân của thành phố. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020 của các ngành, địa phương, Ủy ban nhân dân thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo Xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2020 (Quyết định số 1695/QĐ-UBND ngày 13/10/2010) để triển khai xây dựng Quy hoạch.
2. Những khó khăn thách thức
- Sự hội nhập kinh tế sâu sắc của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới đang dẫn tới sự dịch chuyển nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn vào dịch vụ và công nghiệp, vào những ngành có giá trị xuất nhập khẩu lớn, tốc độ xuất khẩu nhanh. Sự phát triển của khoa học, công nghệ đã và đang tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của nguồn nhân lực của Việt Nam nói chung và của Hải Phòng nói riêng.
- Khi xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011 - 2020 chưa có Quy hoạch tổng thể phát triển nhân lực của cả nước và Quy hoạch phát triển nhân lực của các ngành kinh tế - xã hội nên định hướng phát triển nhân lực của thành phố chưa được chuẩn xác. Nhiều căn cứ pháp lý để xây dựng quy hoạch mới chỉ là dự thảo, chưa được ban hành chính thức, như: Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2011- 2020; Chiến lược Phát triển giáo dục đến năm 2020; Chiến lược phát triển dạy nghề đến năm 2020. Suất đầu tư cho giáo dục - đào tạo ngày càng lớn, trong khi nguồn thu của thành phố còn thấp, chưa đáp ứng được mức tối thiểu của nhu cầu đào tạo nhân lực, dẫn đến chất lượng đào tạo luôn bị tụt hậu so với khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố.
- Thành phố triển khai các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục có nhiều khó khăn, thách thức và những biến động khó lường cũng đã tác động không nhỏ đến việc lập và triển khai thực hiện quy hoạch.
3. Nguyên nhân của những khó khăn thách thức
- Một số địa phương, đơn vị chưa quan tâm đứng mức và nhận thức hết tầm quan trọng của việc thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan có chức năng tham mưu giúp thành phố trong quản lý và phát triển nhân lực còn hạn chế. Công tác hướng nghiệp cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Sự kết hợp giữa nhà trường và doanh nghiệp chưa được thực sự chú trọng và đề cao. Chất lượng công tác đào tạo và trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố.
- Công tác tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố trong việc ban hành các cơ chế chính sách liên quan đến phát triển nhân lực chưa đạt kết quả như mong muốn. Chưa giao đầy đủ quyền tự chủ về tuyển dụng đội ngũ giảng viên cho các trường đại học, cao đẳng công lập đảm bảo số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ.
1. Những mặt được
Việc triển khai Quy hoạch phát triển nhân lực của thành phố đã được lồng ghép trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm của thành phố. Trong kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/2011/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố khóa XIV kỳ họp thứ 2 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh thành phố 5 năm 2011-2015 đã xác định ưu tiên tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững là một trong những nhiệm vụ và giải pháp mang tính đột phá của thành phố. Hàng năm thành phố xây dựng và ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố để các cấp, các ngành, các địa phương triển khai thực hiện, cụ thể:
1.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển nhân lực
- Công tác tuyên truyền phổ biến tới cán bộ, đảng viên, nhân dân về các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và thành phố về vị trí, vai trò đóng góp của nhân lực đối với sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước, nhất là lực lượng lao động trực tiếp tham gia sản xuất có tay nghề, kỹ thuật nhằm nâng cao nhận thức xã hội, thay đổi quan điểm, hành động và tâm lý xã hội trong lựa chọn nghề nghiệp đã đạt kết quả nhất định. Nhận thức của các cấp, các ngành, đặc biệt là nhận thức của người dân về học nghề tăng rõ rệt. Nhu cầu học nghề để làm việc tại doanh nghiệp hoặc tự tạo việc làm ngày càng được người dân, xã hội quan tâm và nhận thức được đây là yêu cầu cần thiết để người lao động có cơ hội tìm việc làm và tự tạo việc làm.
- Hàng năm thành phố đa tổ chức các hoạt động biểu dương, khen thưởng, bình xét danh hiệu, phong và trao các danh hiệu, giải thưởng tôn vinh các tập thể, đơn vị, cá nhân có nhiều đóng góp cho sự phát triển của thành phố, tạo động lực cho sự quan tâm của toàn xã hội; sự phấn đấu của gia đình và bản thân cán bộ, người lao động vươn lên.
1.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành đến quá trình phát triển nhân lực.
- Thành phố đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để phát triển nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nhân lực chất lượng cao, như: Triển khai Đề án Phát triển nhân lực chất lượng cao; Đề án đào tạo 100 tiến sỹ, thạc sỹ ở nước ngoài; Đề án đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho quân nhân xuất ngũ; Chính sách ưu tiên tuyển dụng nhân lực trình độ cao (từ Thạc sỹ trở lên) vào làm việc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của thành phố; ưu tiên giao đất không thu tiền sử dụng đất cho các cơ sở giáo dục và đào tạo ...
- Các cấp ủy Đảng, chính quyền đã nhận thức rõ và xác định đào tạo, phát triển nhân lực vừa là chiến lược lâu dài, vừa là biện pháp trước mắt đảm bảo đủ nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố và góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển của cả nước.
- Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng từng bước hướng tới đạt chuẩn, mô hình đào tạo thí điểm được xây dựng rút kinh nghiệm...chất lượng và hiệu quả dạy nghề có bước chuyển biến tích cực, đào tạo nghề đã gắn với sử dụng lao động.
1.3. Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế thành phố giai đoạn 2011-2015 chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng ngành nông lâm thủy sản, dẫn đến cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch tích cực, phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, thành phần kinh tế. Số lượng và tỷ trọng lao động làm việc trong ngành nông lâm thủy sản giảm (năm 2011: 28,71%; năm 2015: 24,18%) ngành dịch vụ (năm 2011: 42,23%; năm 2015: 48,57%) ngành công nghiệp - xây dựng (năm 2011: 29,26%; năm 2015: 27,25%).
1.4. Chính sách phát triển thị trường lao động và hệ thống công cụ thông tin thị trường lao động
- Thị trường lao động của thành phố được định hướng phát triển phù hợp với định hướng của Nghị quyết và các quy định khác có liên quan của pháp luật hiện hành. Các kênh giao dịch trên thị trường lao động đang dần hình thành. Sàn Giao dịch việc làm của thành phố đã được đầu tư xây dựng và bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 30/8/2011, giai đoạn 2011- 2015 đã tổ chức được 116 phiên giao dịch với sự tham gia tuyển dụng của 3.862 lượt doanh nghiệp, có 134.403 lượt người đến Sàn được tư vấn việc làm và đạt sơ tuyển 20.347 người. Trên cơ sở nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp và người tham gia tư vấn việc làm, thành phố đã đề nghị và được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội lựa chọn là một trong 15 trung tâm trọng điểm trên toàn quốc được đầu tư với số kinh phí là 45 tỷ đồng để đầu tư nâng cao năng lực Trung tâm dịch vụ việc làm giai đoạn 2016-2020.
- Hệ thống các đơn vị giới thiệu việc làm đã được sắp xếp, kiện toàn lại. Thành phố hiện có 9 đơn vị đăng ký hoạt động dịch vụ giới thiệu việc làm, gồm: 3 trung tâm giới thiệu việc làm và 6 đơn vị khác (doanh nghiệp, trường dạy nghề) có đăng ký hoạt động dịch vụ giới thiệu việc làm. Các đơn vị này đang từng bước phát triển thành cầu nối giữa cung và cầu lao động trên thị trường.
1.5. Tăng cường phối hợp giữa bốn bên trong quá trình phát triển nhân lực (Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp và người học)
Để thực hiện được mục tiêu đào tạo theo nhu cầu của xã hội và đào tạo cho doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả sử dụng lao động qua đào tạo, một số trường đã chủ động phối hợp với các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố để trao đổi thông tin việc làm cho sinh viên, mời thỉnh giảng theo chuyên đề... Trường Đại học Hàng hải Việt Nam là một trong số các trường tổ chức tốt chuỗi Chương trình “Kết nối Doanh nghiệp - Nhà quản lý - Đơn vị đào tạo” qua đó đã tăng cường sự gắn kết đa dạng, thiết thực giữa các lĩnh vực hoạt động của Nhà trường với cộng đồng các doanh nghiệp, các đơn vị quản lý nhà nước với trọng tâm là cải tiến nội dung chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng giảng dạy, thực tập thực hành, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu xã hội, tiếp cận thông tin tuyển dụng và giới thiệu việc làm sinh viên... góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển thương hiệu.
1.6. Triển khai các chương trình, đề án, dự án ưu tiên phục vụ phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020
- Đề án đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ ở nước ngoài: Chương trình hợp tác trong nước và quốc tế trong đào tạo, phát triển nhân lực chất lượng cao được thực hiện có hiệu quả thông qua Đề án đào tạo 100 Thạc sĩ, Tiến sĩ ở nước ngoài đã chọn cử được 44 cán bộ đi học. Thành phố đã cử 20 cán bộ, công chức, viên chức đi học nước ngoài theo Đề án 165 của Ban Tổ chức Trung ương.
- Phát triển Trường Đại học Hải Phòng thành trường đại học chất lượng cao, đa ngành, đa lĩnh vực: Trường Đại học Hải Phòng là một trong những trung tâm đào tạo đại học đa ngành và lĩnh vực, từ năm 2011 đến 2015 Trường tập trung vào việc tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; tiếp tục mở rộng đào tạo sau đại học và triển khai đào tạo Nghiên cứu sinh khi đủ điều kiện. Hiện nay trường có 38 đơn vị trực thuộc, trong đó có 14 khoa, 01 Viện, 5 Trung tâm, 3 trường thực hành sư phạm; nhà trường hiện đang đào tạo 04 ngành trình độ thạc sĩ, 57 chuyên ngành hệ chính quy, là 1/40 trường đại học trong cả nước được Bộ Giáo dục và Đào tạo kiểm định chất lượng giáo dục đại học đạt tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam.
- Phát triển Trường Đại học Hàng hải Việt Nam thành trường trọng điểm quốc gia đạt trình độ quốc tế trong việc đào tạo các chuyên ngành hàng hải: Ngày 03/7/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1056/QĐ-TTg về việc đổi tên Trường Đại học Hàng hải thành Trường Đại học Hàng hải Việt Nam; Trường đã trở thành tổ hợp đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng, chuyển giao công nghệ, sản xuất, kinh doanh với hàng trăm phòng thí nghiệm hiện đại, cùng các thiết bị mô phỏng huấn luyện, phòng thực hành, tàu huấn luyện, tàu vận tải và trung tâm nghiên cứu. Hiện nay trường đang đào tạo 8 chuyên ngành tiến sĩ, 11 chuyên ngành trình độ thạc sĩ, 40 chuyên ngành đại học, 10 chương trình dạy nghề với trên 20.000 học viên và sinh viên, trong đó có nhiều học viên và sinh viên đến từ các nước: Hàn Quốc, Hoa kỳ, Mozambique, Nigeria, Nam Phi...
- Phát triển Trường Đại học Y Hải Phòng thành Trường Đại học Y Dược Hải Phòng: Ngày 11/11/2013 tại Quyết định số 2153/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ đã quyết định đổi tên Trường Đại học Y Hải Phòng thành Trường Đại học Y Dược Hải Phòng với mục tiêu: Xây dựng và phát triển trường Đại học Y Dược Hải Phòng trở thành Trung tâm đào tạo nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ có uy tín trong nước và quốc tế, cung cấp nguồn nhân lực y tế chất lượng cao đáp ứng nhu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là đào tạo chuyên ngành y học biển - đảo. Hiện nay trường đang triển khai, mở rộng các ngành đào tạo thuộc nhóm ngành khoa học sức khỏe ở trình độ đại học (Bác sỹ đa khoa, Bác sỹ Răng Hàm mặt, Dược sỹ Đại học...); sau đại học (Tiến sĩ; Bác sĩ chuyên khoa cấp I; Bác sĩ chuyên khoa cấp II) và liên kết đào tạo với các trường đại học trên thế giới trong một số lĩnh vực mà trường có thế mạnh.
- Đầu tư xây dựng Trường Trung học phổ thông chuyên Trần Phú: Dự án đầu tư xây dựng Trường THPT Chuyên Trần Phú được phê duyệt và điều chỉnh với tổng mức đầu tư 356.072 triệu đồng từ nguồn vốn ngân sách thành phố. Giai đoạn I, trường được đầu tư với quy mô đào tạo 66 lớp học, 2.000 học sinh, gồm: Nhà hành chính hiệu bộ 3 tầng; Nhà thư viện 4 tầng; nhà lớp học chính 4 tầng; nhà học các đội tuyển 4 tầng và các hạng mục phụ trợ, hạ tầng kỹ thuật ngoài nhà. Đến nay, trường đã hoàn thành giai đoạn I đưa vào sử dụng đầu năm học 2016-2017.
- Phát triển Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện nghiên cứu hải sản đạt trình độ khu vực và quốc tế:
- Viện Tài nguyên và Môi trường biển cấp quốc gia, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, trong 10 năm gần đây Viện đã chủ trì 34 đề tài, nhiệm vụ khoa học - công nghệ cấp Nhà nước và tương đương; 29 đề tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; 69 đề tài cấp bộ, ngành, tỉnh, thành phố và tương đương; Viện chủ trì thực hiện các đề tài, dự án, nhiệm vụ hợp tác quốc tế: 9 đề tài, dự án hợp tác song phương theo nghị định thư; 23 đề tài, dự án ODA và NGO; 6 đề tài, dự án hợp tác quốc tế khác. Các đề tài, dự án, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học do Viện chủ trì thực hiện, đều đạt được những kết quả nghiên cứu quan trọng, có nhiều đề tài đã được nghiệm thu xuất sắc, kết quả nghiên cứu của đề tài được ứng dụng vào thực tiễn góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội dải ven biển, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng và bảo vệ tổ quốc.
- Viện nghiên cứu hải sản là đơn vị sự nghiệp khoa học công lập trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; chức năng của Viện là nghiên cứu khoa học và công nghệ nghề cá biển; điều tra nguồn lợi hải sản, môi trường biển và đa dạng sinh học biển; chuyển giao công nghệ; đào tạo sau đại học; tư vấn về chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển nghề cá biển phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Hiện nay, Viện đang từng bước xây dựng trở thành một Viện nghiên cứu ngang tầm với các Viện nghiên cứu của một số nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Viện có đội ngũ cán bộ nghiên cứu giàu kinh nghiệm, có năng lực và trình độ đáp ứng được việc thực thi nhiệm vụ.
- Đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Thực hiện Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân thành phố đã thành lập Ban Chỉ đạo thành phố để thực hiện Đề án; xây dựng kế hoạch và giao nhiệm vụ cụ thể cho các Sở, ngành, địa phương để triển khai thực hiện. Sau 5 năm thành phố đã tổ chức dạy nghề cho 118.500 lao động nông thôn, trong đó 16.289 người được hỗ trợ kinh phí đào tạo theo chính sách của Đề án 1956, sau khi kết thúc khóa học có 13.911 người có việc làm phù hợp với nghề đào tạo, đạt tỷ lệ 85%.
- Đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức, viên chức nhà nước: thành phố đang triển khai xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý do Ủy ban nhân dân thành phố quản lý đến năm 2020. Các Sở, ngành, Ủy ban nhân dân các quận, huyện đang triển khai xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý do các Sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các quận, huyện quản lý đến năm 2020.
- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho 1000 Giám đốc doanh nghiệp: Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Quyết định số 2203/QĐ-UBND ngày 23/9/2015 về việc phê duyệt Kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo giám đốc, quản trị doanh nghiệp giai giai đoạn 2015-2020 với mục tiêu đào tạo được một đội ngũ chuyên gia, quản trị kinh doanh giỏi, thông thạo tin học, pháp luật, ngoại ngữ, kiến thức hội nhập quốc tế, khoa học và công nghệ, có năng lực quản lý điều hành doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, dự kiến đến năm 2020 sẽ đào tạo được 180 Tổng Giám đốc, Giám đốc theo chương trình toàn diện; 720 Phó Giám đốc, Quản đốc, Trưởng phòng được đào tạo các chuyên ngành theo chương trình trung và ngắn hạn.
- Phát triển Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp, Bách nghệ, Duyên hải đạt trình độ đào tạo nghề của quốc tế: Các trường đã xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, tài năng, chất lượng cao tại các trường cao đẳng nghề trên địa bàn thành phố. Các trường đã được phê duyệt nghề trọng điểm (theo Quyết định 854/QĐ-BLĐTBXH) để đầu tư nhằm đảm bảo các điều kiện cho đào tạo nghề đạt chất lượng. Chủ động đầu tư về đội ngũ giáo viên, xây dựng chương trình, giáo trình cũng như mua sắm máy móc thiết bị đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất. Các trường cao đẳng trên địa bàn thành phố đã tích cực mở rộng hợp tác, liên kết trong nước và quốc tế trong đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ nghiên cứu, cán bộ trình độ cao đẳng với các nước và vùng lãnh thổ trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, trong đó có các nước phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc...
- Đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên và chương trình giảng dạy: Các trường nghề, cơ sở dạy nghề của thành phố được đầu tư xây dựng, trang bị máy móc thiết bị dạy nghề tương đối đồng bộ, hiện đại; 100% cơ sở dạy nghề đều thực hiện Chương trình đào tạo theo chương trình khung do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành. Quy mô hoạt động dạy nghề trên địa bàn thành phố không ngừng mở rộng cả về số cơ sở dạy nghề và quy mô tuyển sinh dạy nghề. Các cơ sở dạy nghề thuộc thành phố quản lý hiện có 43 cơ sở, trong đó, ngoài công lập là 17 cơ sở, chiếm 40% tổng số cơ sở dạy nghề. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 65% năm 2010 lên 75% năm 2015.
1.7. Thực hiện hiệu quả các giải pháp huy động vốn cho phát triển nhân lực
- Thành phố đã triển khai thực hiện 02 dự án xây dựng ký túc xá tập trung cho sinh viên, cụ thể:
+ Dự án đầu tư xây dựng công trình Khu nhà ở sinh viên tập trung tại khu Quán Nam (giai đoạn I) với tổng mức đầu tư 368.039 triệu đồng với quy mô xây dựng 01 khu nhà ở sinh viên tập trung 15 tầng, tổng diện tích sàn 29.642 m2 với 432 phòng ở và các công trình phụ trợ, hạ tầng kỹ thuật ngoài nhà; diện tích toàn bộ dự án 24.451,45m2. Dự kiến dự án sẽ hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng quý IV/2016.
+ Dự án đầu tư xây dựng Khu ký túc xá sinh viên tại Trường Đại học Hải Phòng với tổng mức đầu tư: 320,632 tỷ đồng với quy mô xây dựng 03 khối ký túc xá 8 tầng với 648 phòng, 01 khối ký túc xá 5 tầng, 02 nhà ăn 2 tầng và hạ tầng kỹ thuật. Đến nay, 02 khối nhà ký túc xá 8 tầng với 360 phòng ở đảm bảo chỗ cho 2.880 sinh viên, 01 nhà ăn 2 tầng và một phần hạ tầng kỹ thuật đã hoàn thành, đưa vào sử dụng.
- Đối với các cơ sở dạy nghề do Bộ, ngành trung ương quản lý hoạt động trên địa bàn thành phố, giai đoạn 2011-2015 đã tập trung đầu tư cho các nghề trọng điểm (theo Quyết định 854/QĐ-BLĐTBXH) tại 5 trường cao đẳng nghề với tổng kinh phí đầu tư là 164,5 tỷ đồng (đạt 65% mục tiêu đề ra) trong đó có 08 nghề đạt cấp độ thế giới, 06 nghề đạt cấp độ khu vực ASEAN và 07 nghề đạt cấp độ quốc gia. Đối với các cơ sở dạy nghề do địa phương quản lý, giai đoạn 2011-2015 đã tập trung cho các nghề trọng điểm tại 02 trường cao đẳng nghề và 05 trường trung cấp nghề với tổng kinh phí là 73,5 tỷ đồng đạt 50% mục tiêu đề ra, trong đó có 01 nghề đạt cấp độ khu vực ASEAN và 13 nghề đạt cấp độ quốc gia.
- Để nâng cao chất lượng đào tạo cho hệ thống Trung tâm dạy nghề, giai đoạn 2011-2015 nhà nước đã đầu tư kinh phí để mua sắm thiết bị dạy nghề và xây dựng cơ sở vật chất với tổng kinh phí 33 tỷ đồng, riêng Trung tâm Dạy nghề và Giáo dục thường xuyên huyện Vĩnh Bảo được đầu tư thành trung tâm kiểu mẫu. Tổng kinh phí tự đầu tư của các cơ sở trong giai đoạn 2011-2015 khoảng 60 tỷ đồng (đạt 45% mục tiêu đề ra) trong đó có 05 nghề đạt cấp độ thế giới, 03 nghề đạt cấp độ khu vực ASEAN và 03 nghề đạt cấp độ quốc gia.
- Thành phố đã tập trung ưu tiên quỹ đất dành cho giáo dục - đào tạo, so với hiện trạng sử dụng đất năm 2010 (quỹ đất cho giáo dục - đào tạo là 618 ha) đến nay diện tích đất đã tăng thêm 20ha, đảm bảo chỉ tiêu được giao theo Nghị quyết 44/NQ-CP ngày 29/3/2013 của Chính phủ về quy hoạch đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất đầu kỳ (2011-2015) thành phố Hải Phòng. Thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên nghèo vay để trang trải chi phí học tập và sinh hoạt trong thời gian theo học tại trường, tổng dư nợ đến năm 2015 là 355.190 triệu đồng với 20.194 học sinh, sinh viên.
1.3. Đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nhân lực
- Ủy ban nhân dân thành phố đang triển khai xây dựng Đề án Chính quyền điện tử nhằm tăng cường khả năng kết nối liên thông các hệ thống thông tin trên quy mô rộng, góp phần tăng khả năng cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ cao cho người dân và doanh nghiệp trên nền tảng dữ liệu, thông tin tin cậy được chia sẻ trên diện rộng giữa các cơ quan nhà nước, bảo đảm tính kế thừa thông tin, dữ liệu hạ tầng, các hệ thống thông tin hiện có; chuyển tiếp linh hoạt, phù hợp theo điều kiện thực tế. Xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án Nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu, đánh giá thực trạng nhân lực khoa học và công nghệ thành phố Hải Phòng.
- Triển khai xây dựng Quy hoạch phát triển mạng lưới trường học, tập trung thực hiện chương trình nâng cấp cơ sở vật chất trường lớp theo hướng đạt chuẩn quốc gia, tập trung đầu tư phát triển mạng lưới trường, lớp phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố và đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội. Đẩy mạnh phát triển giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, duy trì và nâng cao tỷ lệ trẻ đến trường, đến năm 2015 huy động trẻ dưới 2 tuổi đến nhà trẻ đạt 40%; các cháu từ 3-5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt trên 90%; 100% trẻ 5 tuổi đi học mẫu giáo. Củng cố và duy trì phổ cập tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi; ưu tiên hàng đầu cho đảm bảo, nâng cao chất lượng dạy và học đáp ứng nhu cầu xã hội. Củng cố, sắp xếp, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.
- Ngày 21/7/2015 Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành văn bản hướng dẫn số 3502/UBND-NV về việc triển khai đánh giá, phân loại cán bộ công chức, viên chức theo Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, yêu cầu Giám đốc các Sở, ngành và tương đương; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các quận, huyện; Thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc thành phố: Tổ chức quán triệt, triển khai Nghị định nêu trên đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, địa phương mình và đến các cơ quan, đơn vị trực thuộc và hướng dẫn một số nội dung về thẩm quyền đánh giá cán bộ, công chức, viên chức đảm bảo đúng quy định, theo phân cấp hiện hành của thành phố.
- Công tác đào tạo, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn đối với cán bộ y tế được triển khai hàng năm; nhiều cán bộ được cử đi đào tạo tại nước ngoài, trong nước và đào tạo tại chỗ, từ năm 2011-2015 đã đào tạo bồi dưỡng 22 nghiên cứu sinh trong nước, 01 nghiên cứu sinh ở nước ngoài, 81 Cao học trong nước, 83 Bác sĩ chuyên khoa cấp II... Hệ thống y tế tư nhân trên địa bàn thành phố phát triển tương đối mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng; chất lượng cán bộ, nhân viên y tế ngày càng được nâng cao cả về trình độ chuyên môn, năng lực và cơ cấu nhân lực theo quy định của Bộ Y tế.
2. Những tồn tại hạn chế
- Một số chương trình, đề án, dự án ưu tiên phục vụ phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020 (theo quy hoạch) khó có khả năng thực hiện được như: Dự án thành lập trường Đại học quốc tế; Phát triển trường cao đẳng nghề Vinashin đạt trình độ đào tạo nghề của quốc tế, phấn đấu nâng cấp ít nhất 01 trường thành trường Đại học kỹ thuật. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục và đào tạo (bao gồm các các cơ sở giáo dục nghề nghiệp) chưa hình thành. Việc đầu tư mở rộng và thành lập mới trường học các cấp còn thấp do khó khăn về nguồn vốn.
- Kết quả phát triển nhân lực khoa học và công nghệ của thành phố chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố. Một bộ phận bất cập về kiến thức, năng lực và trình độ trước yêu cầu của nền kinh tế thị trường, của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Thiếu cán bộ đầu ngành ở nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ, thiếu chuyên gia công nghệ có trình độ cao. Có sự mất cân đối về ngành nghề đào tạo, đội ngũ công nhân kỹ thuật thiếu cả về chất lượng và số lượng.
- Công tác đào tạo nghề cho người lao động còn bất cập, việc làm cho người học nghề sau đào tạo tuy có tỷ lệ cao nhưng không ổn định, bền vững. Ngân sách nhà nước bố trí cho dạy nghề chưa tương xứng với yêu cầu tăng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo. Chất lượng lao động của Hải Phòng ở mức cao so với mặt bằng chung của cả nước nhưng cơ cấu lao động qua đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố.
- Việc quản lý nhà nước về phát triển nhân lực ngành văn hóa, thể thao còn phân tán và thiếu sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau trên cơ sở định hướng chung về phát triển nhân lực cho thời kỳ dài hạn. Nhân lực đào tạo ở các cấp bậc chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đào tạo chưa gắn với yêu cầu của thị trường lao động. Trình độ và chất lượng đào tạo văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao lạc hậu so với thế giới, chưa tiếp cận được trào lưu phát triển nhân lực.
3. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế
- Một số cấp, ngành chưa thật sự chủ động, tích cực trong việc rà soát, đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, khoa học công nghệ, lao động kỹ thuật và trên cơ sở quy định về tổ chức, bộ máy, biên chế, nhu cầu, dự báo phát triển để xây dựng, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực chất lượng cao cho cấp, ngành mình. Chưa có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học và công nghệ; chưa có chính sách hỗ trợ các tổ chức khoa học và công nghệ đào tạo, đào tạo lại nhân lực.
- Tính quy hoạch, kế hoạch về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức còn nhiều bất cập. Nguồn vốn đầu tư cho nâng cao chất lượng nhân lực, phát triển các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học còn hạn chế. Thiếu chủ động, tích cực trong hợp tác trong nước, quốc tế trong lĩnh vực đào tạo phát triển nhân lực chất lượng cao.
- Môi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực khuyến khích, phát huy năng lực, cống hiến của cán bộ. Trong công tác quản lý, đào tạo cán bộ còn ít cơ chế khuyến khích, hỗ trợ, động viên để cán bộ có động lực theo học đúng chuyên môn, nghiệp vụ của ngành.
- Trong quá trình quản lý còn thiếu những quy định về cơ chế để phối hợp, liên kết giữa cơ quan quản lý với tổ chức đào tạo nhân lực và cơ sở sử dụng nhân lực. Thiếu cơ chế tạo ra sự cạnh tranh trong đào tạo và sử dụng nhân lực.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành y tế còn dàn trải, chưa thực sự sâu sát với yêu cầu nhiệm vụ, không đúng với vị trí đang làm việc; một số cán bộ, công chức, viên chức đi học mang tính tự phát, chưa chủ động đào tạo theo quy hoạch định hướng phát triển kỹ thuật mới, kỹ thuật cao.
- Ngân sách nhà nước bố trí cho dạy nghề chưa tương xứng với yêu cầu tăng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo.
4. Giải pháp khắc phục những tồn tại hạn chế
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội; thay đổi quan điểm, hành động và tâm lý xã hội tạo động lực phát triển nhân lực của thành phố; xác định phát triển nhân lực chất lượng cao là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội.
- Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án, dự án cụ thể phát triển nhân lực được nêu trong Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2020. Lồng ghép các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển nguồn nhân lực vào Chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của các Sở, ngành, địa phương, đơn vị.
- Xây dựng môi trường làm việc khoa học, hiện đại nhằm tạo động lực cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động có động lực, phát huy hết khả năng, sáng tạo trong công việc.
- Xây dựng cơ chế phối hợp và thống nhất quản lý về nhân lực giữa các cấp ngành, địa phương, đơn vị trên địa bàn thành phố; Thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, quản lý sử dụng cán bộ, công chức. Mở rộng phương thức đào tạo trong nước có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài không chỉ ở các trường đại học mà cả ở các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố.
- Đổi mới phương thức đào tạo, xác định rõ mục tiêu, quy mô, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ lực của thành phố. Thực hiện sắp xếp hệ thống trường chuyên về từng cấp đào tạo đại học, cao đẳng và trung cấp; gắn kết với nhu cầu thực tế của xã hội theo ngành, nghề và cấp trình độ đào tạo. Hình thành và phát triển hệ thống đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao bảo đảm tiêu chuẩn nghề quốc gia, khu vực và quốc tế. Xác định khung chương trình đào tạo phù hợp, có chất lượng phù hợp nhu cầu công việc của xã hội và các doanh nghiệp. Hạn chế việc đào tạo tự phát gây tình trạng thừa - thiếu lao động và gia tăng thất nghiệp...
- Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục thuộc các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư, hỗ trợ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông.
- Xây dựng và ban hành chính sách cụ thể để hỗ trợ đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành y tế. Có cơ chế chính sách để khuyến khích, động viên đối với các Bác sĩ làm việc tại các quận, huyện, trạm y tế xã, phường và các đơn vị thực hiện chức năng y tế dự phòng nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân.
- Tăng cường hợp tác quốc tế; đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, khuyến khích phát triển các ngành, lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao... Nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước của Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, đặc biệt là bộ phận Thanh tra của hai ngành này, nhằm chấn chỉnh, nâng cao chất lượng của công tác đào tạo gắn với sử dụng lao động.
- Ưu tiên bố trí ngân sách hàng năm cho công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề trên địa bàn thành phố.
IV. Đề xuất kiến nghị của thành phố với Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương
- Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, bổ sung một số chính sách đối với cán bộ nữ; đổi mới chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức, viên chức; chế độ đặc thù đối với cán bộ, công chức, viên chức thành phố Hải Phòng, thành phố đô thị loại I cấp quốc gia.
- Đề nghị Chính phủ sớm ban hành các chính sách liên quan đến phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông cơ sở và trung học phổ thông; có chính sách kết nối giữa giáo dục phổ thông với thị trường lao động. Ban hành các chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học, ứng dụng và triển khai công nghệ để phục vụ nhu cầu đổi mới, áp dụng khoa học công nghệ trong phát triển doanh nghiệp. Có cơ chế chính sách khuyến khích giảng viên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, giảng viên đi nghiên cứu sinh.
- Đề nghị Bộ Lao động Thương binh và Xã hội nghiên cứu xây dựng, ban hành Khung Chương trình, Chương trình đào tạo cho tất cả các nghề theo hướng tiếp cận công nghệ tiên tiến. Tăng cường kinh phí từ các nguồn cho các cơ sở dạy nghề, đầu tư nghề trọng điểm cho các trường để đạt chuẩn khu vực và quốc tế.
- Đề nghị Bộ Y tế sửa đổi và bổ sung hoàn thiện các chính sách về y tế, đặc biệt các chính sách nhằm tăng cường nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa y tế, nâng cao thu nhập cho cán bộ y tế, phụ cấp thâm niên ngành y tế, phụ cấp tai nạn rủi ro nghề nghiệp...
- Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng hệ thống thông tin về người học, tập hợp từ thông tin của tất cả các trường trong hệ thống giáo dục để người sử dụng lao động có thể truy cập kiểm tra tính xác thực của văn bằng, chứng chỉ nhằm khắc phục cơ bản vấn nạn bằng giả hiện nay.
- Vấn đề thể lực và tầm vóc của người lao động cần được Chính phủ quan tâm hơn nữa để có thể đáp ứng được những yêu cầu của nền sản xuất công nghiệp cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, cần phải có biện pháp thiết thực để bảo vệ, chăm sóc sức khỏe và nâng cao thể lực toàn dân.
- Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ gồm 7 tỉnh và thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, đây là vùng kinh tế năng động của miền Bắc và cả nước, ưu thế lớn nhất của vùng kinh tế này là nhân lực được đào tạo tốt, điểm thi vào các trường đại học, cao đẳng và tỷ lệ sinh viên trên 01 vạn dân cao nhất cả nước, có nhiều trường đại học, cao đẳng, dạy nghề, tuy nhiên chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ mới chỉ đề cập đến liên kết phát triển kinh tế vùng mà chưa rõ nét chính sách về liên kết đào tạo phát triển nhân lực, phân công lao động và thực hiện chuyên môn hóa sâu giữa các địa phương để có thể khai thác hiệu quả nguồn nhân lực và các thế mạnh khác của mỗi địa phương và toàn vùng, bảo đảm giữa lao động và các yếu tố sản xuất khác./.
| TM. ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ |
- 1 Quyết định 309/QĐ-UBND năm 2016 phê duyệt Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Ngãi
- 2 Quyết định 2203/QĐ-UBND năm 2015 về phê duyệt Kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo giám đốc, quản trị doanh nghiệp giỏi thành phố Hải Phòng giai đoạn 2015-2020
- 3 Quyết định 3612/QĐ-UBND năm 2015 phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
- 4 Quyết định 310/QĐ-UBND năm 2014 về Kế hoạch thực hiện Chương trình phát triển nguồn nhân lực tỉnh An Giang giai đoạn 2011-2015 và Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh An Giang giai đoạn 2011-2020
- 5 Quyết định 2153/QĐ-TTg năm 2013 đổi tên Trường Đại học Y Hải Phòng thành Trường Đại học Y Dược Hải Phòng do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 6 Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 7 Nghị quyết 07/2013/NQ-HĐND về nhiệm vụ, giải pháp, cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục - thể thao trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013 - 2016, định hướng đến năm 2020
- 8 Quyết định 1056/QĐ-TTg năm 2013 đổi tên Trường Đại học Hàng hải thành Trường Đại học Hàng hải Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 9 Quyết định 854/QĐ-BLĐTBXH năm 2013 phê duyệt nghề trọng điểm và trường được lựa chọn nghề trọng điểm giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020 do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
- 10 Nghị quyết 44/NQ-CP năm 2013 quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011 - 2015) thành phố Hải Phòng do Chính phủ ban hành
- 11 Quyết định 1640/QĐ-UBND năm 2012 về Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011 - 2020
- 12 Quyết định 1216/QĐ-TTg năm 2011 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 13 Quyết định 579/QĐ-TTg năm 2011 về phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 14 Quyết định 1956/QĐ-TTg năm 2009 phê duyệt đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 15 Nghị quyết 04/2008/NQ-HĐND về chủ trương, giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập, công nghiệp, hiện đại hóa thành phố đến năm 2010, 2020 do Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng khóa XIII, kỳ họp thứ 12 ban hành
- 1 Quyết định 310/QĐ-UBND năm 2014 về Kế hoạch thực hiện Chương trình phát triển nguồn nhân lực tỉnh An Giang giai đoạn 2011-2015 và Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh An Giang giai đoạn 2011-2020
- 2 Quyết định 3612/QĐ-UBND năm 2015 phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
- 3 Quyết định 309/QĐ-UBND năm 2016 phê duyệt Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Ngãi