Hệ thống pháp luật
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 16/2011/NQ-HĐND

Cần Thơ, ngày 08 tháng 12 năm 2011

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ VIỆC ĐẶT TÊN ĐƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
KHÓA VIII, KỲ HỌP THỨ BA

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ngày 03 tháng 12 năm 2004;

Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;

Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ;

Sau khi xem xét Tờ trình số 59/TTr-UBND ngày 03 tháng 11 năm 2011 của Ủy ban nhân dân thành phố về việc đặt tên đường trên địa bàn thành phố Cần Thơ; Báo cáo thẩm tra số 56/BC-HĐND-VHXH ngày 29 tháng 11 năm 2011 của Ban văn hóa - xã hội và ý kiến của các đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1.

Đặt tên 11 tuyến đường trên địa bàn thành phố Cần Thơ.

Kèm theo:

- Phụ lục 1: Thuyết minh vị trí các tuyến đường;

- Phụ lục 2: Tóm tắt tiểu sử nhân vật, sự kiện, địa danh lịch sử.

Điều 2.

Giao Ủy ban nhân dân thành phố tổ chức triển khai và thực hiện việc gắn biển tên đường trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành;

Giao Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.

Nghị quyết này có hiệu lực thi hành sau mười ngày kể từ ngày Hội đồng nhân dân thành phố khóa VIII, kỳ họp thứ ba thông qua ngày 08 tháng 12 năm 2011 và được phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật./.

 

 

CHỦ TỊCH




Nguyễn Hữu Lợi

 

PHỤ LỤC I

THUYẾT MINH VỊ TRÍ CÁC TUYẾN ĐƯỜNG
 (Kèm theo Nghị quyết số 16/2011/NQ-HĐND ngày 08 tháng 12 năm 2011 của Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ)

STT

Tên đường

Chiều dài (m)

Mặt cắt ngang đường (m)

Phân nhóm

Giới hạn

Tên đường hiện trạng

(tên tạm gọi)

Mặt đường

Vỉa hè

Lộ giới

1

Lê Văn Sô

1.000

10

 

10

IV

Từ đường Cách Mạng Tháng Tám đến đường Trần Quang Diệu (phường An Thới, quận Bình Thủy)

Hẻm 93 đường Cách Mạng Tháng Tám (phường An Thới, quận Bình Thủy)

2

Lê Quang Chiểu

500

4

 

4

IV

Từ hẻm 93 đường Cách Mạng Tháng Tám đến đường Nguyễn Thông

Đường nối hẻm 93 đường Cách Mạng Tháng Tám và đường Nguyễn Thông (phường An Thới, quận Bình Thủy)

3

Thái Thị Nhạn

800

4

 

6

IV

Từ Trần Quang Diệu đến đường Nguyễn Thông

Hẻm 127 đường Trần Quang Diệu nối qua phường An Thới (quận Bình Thủy)

4

Đinh Công Chánh

1.500

4

 

8

IV

Tuyến đường từ Quốc lộ 91B đến Trại Cưa

Tuyến đường vào chùa Long Quang (phường Long Hòa, quận Bình Thủy)

5

Lê Văn Bì

400

4

 

7

IV

Từ hẻm 93 đến hẻm 91 đường Cách Mạng Tháng Tám

Đường nối hẻm 93 và hẻm 91 đường Cách Mạng Tháng Tám (phường  An Thới, quận Bình Thủy)

6

Mai Văn Bộ

3.200

4

 

14,75

IV

Từ Quốc lộ 91 đến chợ Thuận Hưng

Tuyến Hương lộ phường Thuận Hưng, quận Thốt Nốt.

7

Phan Đình Giót

279

4

 

6,5

IV

Từ Quốc lộ 91 đến đường Lê Thị Tạo.

Đường cặp cống rạch Chùa (phường Thốt Nốt, quận Thốt Nốt)

8

Sư Vạn Hạnh

170

4,5

2

4

IV

Từ Quốc lộ 91 đến Tịnh xá Ngọc Trung Tăng.

Đường rạch Chùa nối dài (phường Thốt Nốt, quận Thốt Nốt)

9

Nguyễn Trọng Quyền

3.300

4,5

 

30,5

IV

Từ Quốc lộ 91 đến Bắc Đuông

Đường phường Trung Kiên - phường Trung Thạnh (quận Thốt Nốt) (đường đi xã Trung An, huyện Cờ Đỏ)

10

Nguyên Hồng

460

5,5

1,5

20

IV

Từ Quốc lộ 1A đến điểm cuối bờ sông Ba Láng

Lộ Ông Chệt (phường Ba Láng, quận Cái Răng)

11

Nhật Tảo

1.137

5,5

 

15

IV

Từ điểm giáp đường Võ Tánh, điểm cuối giáp lộ Trường Chính trị

Lộ Bà Cai (phường Lê Bình, quận Cái Răng)

 

PHỤ LỤC II

TÓM TẮT TIỂU SỬ NHÂN VẬT, SỰ KIỆN, ĐỊA DANH LỊCH SỬ
(Kèm theo Nghị quyết số 16/2011/NQ-HĐND ngày 08 tháng 12 năm 2011 của Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ)

1. LÊ VĂN SÔ (1904 - … )

Còn gọi là Hòa, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1904 tại làng Thới An Đông, quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Năm 1926, ông được kết nạp vào “Việt Nam phục quốc Đảng” - Một tổ chức yêu nước đầu tiên ở tỉnh Cần Thơ. Năm 1927, ông được đưa sang Trung Quốc dự lớp học của Nguyễn Ái Quốc và được kết nạp vào “Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội”.

Cuối năm 1927, về nước ông hoạt động ở Cần Thơ, phát triển các cơ sở Đảng và lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng. Năm 1931, ông bị địch bắt và đày đi Côn Đảo, dù bị tra tấn dã man nhưng ông vẫn giữ vững khí tiết. Tháng 7 năm 1936, ông được ra tù và tiếp tục hoạt động. Tháng 9 năm 1945, ông làm quyền Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ, sau đó làm Thủ quỹ Xứ ủy Nam bộ, Ủy viên Ban Kinh tài Trung ương Cục miền Nam. Từ sau năm 1962, do tuổi tác và sức khỏe, ông được tổ chức phân công ở lại Thủ Đức sinh sống và nuôi chứa cán bộ và là nơi hội họp của cơ quan thành Sài Gòn - Gia Định. Lê Văn Sô là một trong những hạt giống đỏ gieo mầm và khơi ngọn lửa cách mạng bùng cháy trên mảnh đất Cần Thơ anh hùng.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Những viên ngọc quý: Tập II - Cần Thơ: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 1999 - 226tr; 19cm).

2. LÊ QUANG CHIỂU (1853 - 1924)

Ông quê ở làng Nhơn Ái, huyện Phong Điền, tỉnh Cần Thơ (nay thuộc quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ). Ông là học trò của Cử nhân Phan Văn Trị nên chịu ảnh hưởng tinh thần yêu nước của Cụ. Sau khi Cai tổng Nguyễn Văn Vĩnh bị nghĩa quân Đinh Sâm giết chết, thực dân Pháp đưa Lê Quang Chiểu lên làm Cai tổng Định Bảo. Trong thời gian làm cai tổng, ông đã tham gia làm 10 bài Tôn họa thơ tự thuật của Tôn Thọ Tường, góp phần với Phan Văn Trị vạch mặt, lên án tên phản nước, hại dân.

Ngoài ra ông còn làm nhiều bài thơ chỉ trích các tên tay sai khác như Trần Bá Lộc, Huỳnh Công Miêng, tên Đốc phủ Nhuận,… Vì thế, thực dân Pháp và bọn tay sai tìm cách ám hại. Không thể tiếp tục chịu đựng được nên ông làm tờ tự thuật giải chức. Năm 1903, ông xuất bản tập “Quốc âm thi hiệp tuyển” gồm nhiều bài thơ của các sĩ phu yêu nước ở Nam Kỳ trong đó có thơ của ông, do ông dịch và in bằng chữ Quốc ngữ. Có lẽ đây là tác phẩm văn học viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Cần Thơ được xuất bản và cũng là một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất ở Nam bộ vào đầu thế kỷ XX.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Địa chí Cần Thơ/Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ - Cần Thơ, 2002 - 935tr; 27cm).

3. THÁI THỊ NHẠN (1906 - 2003)

Quê làng Nhơn Ái (tỉnh Cần Thơ). Sớm có lòng yêu nước, năm 1929 bà được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội làng Bình Thủy (là nữ cán bộ đầu tiên của tỉnh lúc bấy giờ được kết nạp vào Hội).

Tháng 2 năm 1930, bà được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1931, bà bị địch bắt, kết án 5 năm tù giam tại khám lớn Sài Gòn. Năm 1936, bà ra tù tiếp tục hoạt động. Năm 1945, bà lên Sài Gòn hoạt động hợp pháp, là Thành ủy viên, Phó Bí thư Quận ủy Quận III, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1949, bà bị địch bắt lần thứ 2 nhưng không khai thác được gì.

Năm 1955, bà bị giặc bắt lần thứ 3 và đày ra Côn Đảo. Năm 1961 bà ra tù. Sau đó giữ các nhiệm vụ: Hội phó Hội phụ nữ giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định, Ủy viên Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định.

Năm 1963, bà bị địch bắt lần thứ 4, trong tù bà vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cộng sản kiên cường.

Sau ngày miền Nam giải phóng, bà là Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh phụ trách Hội mẹ chiến sĩ. Năm 1979, bà nghỉ hưu.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Những viên ngọc quý: Tập I).

4. ĐINH CÔNG CHÁNH (1839 - 1899)

Đinh Công Chánh là con của ông Đinh Công Điển và bà Huỳnh Thị Hiệu. Lúc nhỏ ông học tại gia, khi lên 7 tuổi ông theo học trường chữ Nho ở xóm Bà Đồ do Nguyễn Thị Nguyệt dạy. Không bao lâu, bà giáo qua đời, ông trở về tiếp tục học tại gia.

Ông là người tham gia vào Tao đàn văn học đầu tiên của làng Bình Hưng (tên trước của làng Bình Thủy). Ông được Bùi Hữu Nghĩa dạy làm thơ. Ông cũng là bạn tâm giao với Bùi Hữu Sanh nên ông được truyền dạy nghề thuốc Bắc, thuốc Nam. Ông được vị Lão sư Nguyễn Giác Nguyên tin yêu rồi được hướng dẫn theo con đường của các sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Ông tham gia phong trào vận động Đông Du (do Phan Bội Châu khởi xướng và lãnh đạo) tại làng Bình Thủy. Ông được Ban Tế tự Đình thần Bình Thủy giao cho công việc dọn dẹp khu vực xung quanh Đình để cất miếu thờ Thần Nông ở Tả ban, miếu thờ Sơn Quân ở Hữu ban, cất nhà Võ Ca làm sân khấu. Ông đã hoàn thành tốt công việc và được nhân dân khen ngợi.

Đương thời ông được xem là nhà Nho, thường kêu gọi nhân dân hãy làm điều lành, tránh làm điều dữ. Ông là một danh y có tiếng, tu hành đức độ và giỏi về thiên văn, địa lý.

Năm 1887, ông là Trưởng Ban Bảo tự chùa Long Quang. Sau đó ông được Ban Tế tự Đình thần Bình Thủy - Long Tuyền bầu giữ chức Bồi Bái - chức việc này được xem như hộ vệ của thần. Những người giữ chức việc này phải là người am hiểu công việc đình chùa, có đạo đức tốt, có uy tín trong nhân dân.

Ông mất năm 1899, sau một tai nạn khi tham gia thả đòn nóc trong lần trùng hưng chùa Long Quang. Ông mất đi để lại niềm thương cảm vô hạn trong nhân dân làng cổ Bình Thủy - Long Tuyền, người ta thường nhắc đến ngày mất của ông bằng câu ca dao: Ngày ba, tháng tý, giờ thìn/ Nhằm năm Kỷ Hợi, đế kinh triệu hồi.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Nguồn trích dẫn: Chuyện làng cổ Bình Thủy - Long Tuyền/Nguyễn Sương - Cần Thơ: Nxb Đại học Cần Thơ, 2011 - 150tr).

5. LÊ VĂN BÌ (1934 - 1971)

Liệt sĩ. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Cán bộ Điệp báo - Ban An ninh tỉnh Cần Thơ.

Quê xã Long Tuyền, nay thuộc quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Khi hy sinh, anh là Đảng viên, cán bộ Điệp báo Ban An ninh tỉnh Cần Thơ.

Từ năm 1960 - 1963, anh tham gia du kích xã, sau đó được tuyển vào công tác điệp báo tỉnh Cần Thơ. Sau tổng tiến công tết Mậu Thân, Ban An ninh tỉnh Cần Thơ cử anh về làm Bí thư Đảng ủy xã Long Tuyền. Đây là địa bàn chiến lược quan trọng trong thế phòng thủ Vùng 4 chiến thuật nhằm bảo vệ các cơ quan đầu não của Mỹ - Ngụy tại thành phố Cần Thơ. Anh đã vượt qua nhiều thử thách và nguy hiểm, ban ngày sống dưới hầm bí mật, ban đêm đến từng nhà dân vận động quần chúng bám đất, tham gia đấu tranh. Sau 3 năm kiên trì bám dân, anh đã xây dựng được hàng chục cơ sở thu thập tin tức, tiếp tế lương thực, thuốc men cho cách mạng.

Ngày 10 tháng 4 năm 1971, trong một trận càn quét địch phát hiện nơi ẩn nấp và bắt anh đưa về Ty cảnh sát, chúng dùng mọi cực hình tra tấn và dụ dỗ hòng tìm tài liệu điệp báo, vũ khí và cơ sở nội thành. Ngày 11 tháng 4 năm 1971, anh dẫn địch vào một bãi mìn, lừa chúng đến gần vị trí quả mìn rồi đạp cho mìn nổ làm chết 9 tên, bị thương 14 tên và anh đã anh dũng hy sinh.

Anh được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất. Ngày 22 tháng 7 năm 1988, anh được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Nguồn trích dẫn:“Những đơn vị, cá nhân anh hùng Công an nhân dân” - Nxb Công an nhân dân).

6. MAI VĂN BỘ (1918 - 2002)

Quê huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ. Năm 1940, được gia đình đưa ra Hà Nội học đại học và tham gia vào phong trào cách mạng của sinh viên. Ông đã sáng tác bài hát Bạch Đằng Giang và Ải Chi Lăng được Lưu Hữu Phước phổ nhạc và trở thành những bài hát truyền thống được hát vang trong thời kỳ tiền khởi nghĩa. Năm 1942, ông được bầu vào Ban Chấp hành Tổng hội Sinh viên Đông Dương. Năm 1944, ông trở về miền Nam kháng chiến, tham gia phong trào Thanh niên Tiền phong phụ trách công tác báo chí. Sau Cách Mạng Tháng Tám, ông giữ chức vụ Giám đốc Báo chí Nam bộ, rồi phụ trách báo Quyết Chiến, báo Liên Việt. Ông còn tham gia xây dựng gánh hát Nam Châu thành cơ sở kháng chiến bí mật ở nội thành Sài Gòn, là địa điểm tập họp, liên lạc an toàn cho anh chị em trí thức kháng chiến nội và ngoại thành. Năm 1949, ông được Trung ương Cục miền Nam cử phụ trách Đài Phát thanh Tiếng nói Nam bộ.

Năm 1954, ông được cử làm thành viên của phái đoàn quân sự nước ta cùng với Ủy ban quốc tế giám sát đình chiến ở Sài Gòn theo tinh thần Hiệp định Genève.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Trí thức Nam bộ trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)/Hồ Sơn Diệp - TP. Hồ Chí Minh: Đại học quốc gia, 2003 - 358tr; 21cm).

7. PHAN ĐÌNH GIÓT (1920 - 1954)

Anh quê huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Nhà rất nghèo, bố mất sớm, anh phải đi ở đợ, làm thuê từ năm 13 tuổi. Cách Mạng Tháng Tám thành công, anh tham gia tự vệ chiến đấu, đến năm 1950 xung phong vào bộ đội chủ lực. Trong chiến đấu, anh luôn luôn nêu cao tinh thần quả cảm, kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Mùa Đông năm 1953, đơn vị anh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, có lệnh nổ súng tiêu diệt vị trí Him Lam, sau nhiều loạt pháo bắn dọn đường, các chiến sĩ ta xông lên liên tiếp đánh bộc phá. Mặc dù bị thương ở đùi, Phan Đình Giót vẫn ôm bộc phá lao lên đánh tiếp. Lợi dụng thời cơ địch đang hoang mang, anh vọt lên bám chắc lô cốt, ném thủ pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến vào. Bị thương vào vai, máu chảy đầm đìa, anh cố gắng nhích dần người đến sát lô cốt số 3, rồi dùng hết sức còn lại lao cả thân mình vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hỏa điểm của địch bị dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam.

Anh được Quốc hội và Chính phủ truy tặng Huân chương Quân công hạng Hai và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Từ điển nhân vật lịch sử/Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh chủ biên; Phan Đại Doãn... - H: Giáo dục, 2006 - 648tr; 24cm).

8. SƯ VẠN HẠNH (929 - 1018)

Nhà sư nổi tiếng thời Tiền Lê, quê ở châu Cổ Nháp (Từ Sơn - Bắc Ninh). Thuở nhỏ thông minh, chăm học, nổi tiếng giỏi cả ba đạo Nho, Phật, Lão.

Năm 21 tuổi, ông xuất gia đầu Phật, tu ở chùa Lục Tổ, rất được mọi người hâm mộ. Năm 981, quân Tống xâm lược nước ta, ông đã từng đóng góp nhiều ý kiến về việc chống giặc. Nhà sư Lý Khánh Văn nhờ ông nuôi dạy Lý Công Uẩn. Thấy cậu bé khác thường, ông rất quý và hết lòng dạy dỗ.

Truyền rằng, vào cuối đời Lê Ngọa Triều, ở vùng Duyên Uẩn châu Cổ Nháp, xuất hiện lời sấm: “Thụ căn điểu điểu, Mộc biểu thanh thanh, Hòa đao mộc lạc, Thập bát tử thành...”. Mấy câu này ý nói là “vua thì non yểu, bề tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương tây lặn mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình”. Ông nghe được, biết là thiên hạ sắp có sự đổi thay, ý trời dành ngôi cho nhà Lý..., bèn tìm Lý Công Uẩn, khuyên nhân cơ hội này lên làm vua.

Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, triều thần theo ý Đào Cam Mộc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Nhà Lý thành lập, ông được phong Quốc sư. Khi ông mất, vua đã đích thân đến chùa làm lễ siêu độ.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam/Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh chủ biên; Phan Đại Doãn....- H: Giáo dục, 2006 - tr;24cm).

9. NGUYỄN TRỌNG QUYỀN (1876 - 1953)

Nguyễn Trọng Quyền (Bút danh: Mộc Quán, Thốc Sơn, Hưng Hoành) sinh năm 1876 tại làng Thạnh Hòa, Trung Nhứt, tổng Định Mỹ, quận Thốt Nốt, tỉnh Long Xuyên (nay là phường Trung Kiên, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ).

Tuổi trẻ ông học ở Thốt Nốt, Cần Thơ rồi gia nhập làng báo, cộng tác viết bài cho các báo Nông Cổ mín đàm, Lục tỉnh Tân văn.

Năm 1916, ông làm thầy tuồng cho gánh hát “Tập Ích ban” và bắt đầu sự nghiệp sáng tác kịch bản. Trong suốt 50 năm sáng tác, ông đã để lại cho sân khấu cải lương Nam bộ 85 kịch bản cải lương, 7 truyện thơ, 12 tập và trên 100 bài thơ về răn dạy lớp trẻ.

Đặc biệt, hai vở “San Hậu” và “Phụng Nghi Đình” của ông đã được Trường Nghệ thuật sân khấu thành phố Hồ Chí Minh đưa vào chương trình giảng dạy của nhà trường, được coi là mẫu mực của cải lương Việt Nam.

Ông mất ngày 21 tháng 9 năm 1953 tại Châu Đốc.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Địa chí Cần Thơ/Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ - Cần Thơ, 2002 - 935tr; 27cm).

10. NGUYÊN HỒNG (1918 - 1982)

Nhà văn. Ông xuất thân trong một gia đình Công giáo ở Nam Định. Bố mất sớm, mẹ phải đi làm xa, cảnh nhà nghèo túng, ông phải thôi học, năm 1934, trốn nhà ra Hải Phòng dạy học tư để kiếm sống. Thời kỳ Mặt trận dân chủ, chịu ảnh hưởng của các chiến sĩ cộng sản và sách báo cách mạng, ông tham gia Đoàn thanh niên dân chủ do Đảng lãnh đạo và bắt đầu viết báo phục vụ cách mạng. Từ 1939 - 1942, ông bị thực dân Pháp bắt giam ở Bắc Mê (Hà Giang). Năm 1943 ra tù, ông tham gia Hội Văn hóa cứu quốc. Từ 1947 - 1970, ông công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Ông mất ở Yên Thế (Bắc Giang) năm 1982.

Ông là một nhà văn nổi tiếng rất sớm. Năm 1936, tiểu thuyết đầu tay Bỉ Vỏ của ông được hoan nghênh nhiệt liệt. Trước Cách Mạng Tháng Tám ông đã khẳng định vị trí một nhà văn hiện thực phê phán với nhiều tác phẩm như: Những ngày thơ ấu, Bảy Hựu, Qua những màn tối, Ngọn lửa, Miếng bánh… Chủ nghĩa nhân đạo là nét xuyên suốt sáng tác của ông. Hai tập truyện ngắn đánh dấu bước chuyển biến cách mạng của ngòi bút ông là Địa ngục và Lò lửa. Ông còn viết bộ trường thiên tiểu thuyết Cửa biển 4 tập, là bức tranh hoành tráng về xã hội Việt Nam những năm 1939 - 1945 với hàng chục nhân vật, hàng trăm sự kiện lịch sử, tạo nên tiếng nói mới của tiểu thuyết Việt Nam. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, đợt 1 năm 1996.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Nguồn trích dẫn: Từ điển nhân vật lịch sử Việt/Nam Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh chủ biên; Phan Đại Doãn, Chương Thâu...- H: Giáo dục, 2006 - 647tr; 24cm).

11. NHẬT TẢO

Địa danh lịch sử chống Pháp tại tỉnh Long An, Nhật Tảo là con sông nhánh về hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông thuộc làng Nhật Tảo, Tổng Cửu Hạ, phủ Tân An (nay là xạ Nhựt Tân, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An).

Tại con sông này vào ngày 11 tháng 12 năm 1891, Nguyễn Trung Trực cùng Hồ Quang Chiêu, Nguyễn Học chỉ huy một toán nghĩa quân dùng mưu đốt tàu chiến “Hy Vọng” của thực dân Pháp, diệt bọn lính trên tàu. Trận chiến trên sông Nhật Tảo thể hiện tinh thần yêu nước của nhân dân Nam bộ từ những ngày đầu giặc Pháp xâm lược nước ta.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường: Từ điển địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam: Nguyễn Như Ý, Nguyễn Thành Chương, Bùi Thiết - H: KHXH, 2004 1223tr; 24cm)./.