Hệ thống pháp luật
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 58/NQ-HĐND

Vĩnh Phúc, ngày 18 tháng 12 năm 2017

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ TIẾP TỤC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
KHOÁ XVI KỲ HỌP THỨ 7

Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 35/NQ-HĐND ngày 21 tháng 7 năm 2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Chương trình hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh năm 2017;

Căn cứ Nghị quyết số 11/NQ-HĐND ngày 17 tháng 7 năm 2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh về thành lập Đoàn giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong cải cách thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh;

Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 86/BC-ĐGS ngày 05 tháng 12 năm 2017 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong cải cách thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh; ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp;

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Tán thành nội dung Báo cáo kết quả giám sát số 86/BC-ĐGS ngày 05 tháng 12 năm 2017 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong cải cách thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh.

Từ năm 2015 đến nay, Ủy ban nhân dân tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh đã có nhiều nỗ lực và quyết tâm thực hiện chủ trương cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông, góp phần đổi mới phương thức hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước theo hướng hiện đại hóa, chuyên môn hóa, tách hoạt động chuyên môn với nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết hồ sơ cho cá nhân, tổ chức, tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức khi đến giao dịch với cơ quan hành chính nhà nước; giảm tình trạng cá nhân, tổ chức phải đi lại nhiều lần, gặp nhiều cơ quan, nhiều cấp chính quyền để giải quyết công việc, từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh; góp phần tích cực làm thay đổi mối quan hệ giữa chính quyền và người dân, tổ chức; tạo điều kiện để chính quyền gần dân hơn; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông trên địa bàn tỉnh còn có hạn chế, bất cập trong đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc, ứng dụng công nghệ thông tin; trong bố trí công chức, viên chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông; trong rà soát, công bố thủ tục hành chính và giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông; trong thu phí, lệ phí. Vẫn còn 72 thủ tục hành chính (chiếm 4,2%) chưa được đưa vào giải quyết theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Chất lượng công chức, viên chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu cả về năng lực chuyên môn, kỹ năng giao tiếp, tinh thần thái độ phục vụ, ý thức trách nhiệm, đạo đức công vụ; khả năng sử dụng phần mềm còn hạn chế. Ở một số cơ quan, địa phương, việc thực hiện quy trình tiếp nhận, luân chuyển hồ sơ, trả kết quả, áp dụng biểu mẫu giấy tờ, sổ sách chưa đúng theo quy định pháp luật; còn có tình trạng quy định thêm thành phần hồ sơ, tình trạng quá hạn trong giải quyết thủ tục hành chính, người dân, doanh nghiệp phải đi lại nhiều lần, nhiều nơi để hoàn thiện hồ sơ, giải quyết thủ tục hành chính, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, bất cập nêu trên là: Cấp ủy, chính quyền một số địa phương chưa thật sự quan tâm lãnh đạo, quán triệt, chỉ đạo thực hiện chính sách, pháp luật về hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông ở địa phương mình; trách nhiệm người đứng đầu ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thật sự được đề cao, chưa quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; chưa quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về cơ chế một cửa, một cửa liên thông; nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa của công tác cải cách hành chính, nhận thức pháp luật về thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông của một số cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, bất cập; chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông chưa đáp ứng yêu cầu. Trách nhiệm quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông chưa thật sự được đề cao; chất lượng công tác kiểm soát thủ tục hành chính, công tác tập huấn, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức, viên chức làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả nhìn chung còn hạn chế; chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu, chưa kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý nghiêm các vi phạm của cá nhân, tổ chức có liên quan trong tổ chức thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông.

Điều 2. Để khắc phục những hạn chế, bất cập, đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật về cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông, góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách thủ tục hành chính, cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới, Hội đồng nhân dân tỉnh giao Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ sau:

1. Tiếp tục chỉ đạo các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông. Đưa chỉ tiêu cải cách hành chính, trong đó có việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các chấp chính quyền địa phương và coi đây là chỉ tiêu cần được ưu tiên thực hiện.

2. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, trong đó, tập trung thực hiện các giải pháp sau:

a) Đổi mới phương pháp, hình thức, nội dung nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, bồi dưỡng, tập huấn về cải cách hành chính, về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông nhằm nâng cao một bước nhận thức của toàn xã hội về vai trò ý nghĩa của cải cách hành chính, của cơ chế một cửa, một cửa liên thông, đồng thời nâng cao năng lực, kỹ năng, ý thức, trách nhiệm, tính chuyên nghiệp cho đội ngũ công chức, viên chức làm việc tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết các cấp.

b) Sớm chỉ đạo xây dựng, ban hành theo thẩm quyền các văn bản có liên quan đến việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông như: Quy chế phối hợp giữa các ngành, các cấp trong thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông; quyết định về thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà nước ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; quy định việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn có liên quan đến cá nhân, tổ chức.

c) Chú trọng công tác kiểm soát thủ tục hành chính, kịp thời công bố, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với pháp luật hiện hành; sớm khắc phục tình trạng tiếp nhận, giải quyết trả kết quả thủ tục hành chính tại bộ phận chuyên môn của các cơ quan, địa phương, đơn vị; khắc phục tình trạng người dân, doanh nghiệp phải đi lại nhiều lần, đến nhiều nơi để được giải quyết thủ tục hành chính.

d) Thực hiện rà soát, đánh giá tổng thể đội ngũ công chức, viên chức và cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, trang thiết bị tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả các cấp trên địa bàn toàn tỉnh để có giải pháp bố trí, sắp xếp, đầu tư cho phù hợp. Trang bị đồng phục cho công chức, viên chức làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo quy định.

đ) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; nâng cao chất lượng sử dụng phần mềm ứng dụng dùng chung ở các ngành, các cấp; tiếp tục triển khai có hiệu quả phần mềm giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 theo chỉ đạo của Chính phủ. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tin học hóa quản lý hành chính nhà nước, thực hiện chính quyền điện tử, đáp ứng các điều kiện cần thiết khác cho công tác cải cách hành chính nhà nước.

e) Thường xuyên thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về chủ trương cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông; lấy kết quả thực hiện chủ trương cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự tín nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị, người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.

3. Lựa chọn thủ tục hành chính đưa vào giải quyết tại Trung tâm Hành chính công của tỉnh, bố trí nhân lực, tổ chức vận hành hoạt động Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh, cấp huyện đảm bảo hiệu quả, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; quan tâm chỉ đạo công tác sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh, cấp huyện.

Điều 3. Tổ chức thực hiện

1. Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức thực hiện Nghị quyết này và báo cáo kết quả thực hiện tại kỳ họp thường lệ giữa năm 2018.

2. Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.

3. Nghị quyết này đã đ­ược Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XVI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 13 tháng 12 năm 2017 và có hiệu lực từ ngày ký./.

 

 

CHỦ TỊCH




Trần Văn Vinh