UỶ BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1575/2006/QĐ-UBND | Vĩnh Long, ngày 03 tháng 8 năm 2006 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT "ĐỀ ÁN ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC, DẠY NGHỀ, Y TẾ, VĂN HÓA, THỂ DỤC THỂ THAO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH LONG GIAI ĐOẠN 2006 - 2010"
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, ngày 26/11/2003;
Căn cứ Nghị quyết số 35/2006/NQ-HĐND , ngày 13/7/2006 của Hội đồng nhân dân tỉnh về tiếp tục thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh 6 tháng cuối năm 2006;
Xét Tờ trình của Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt "Đề án đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2010". Có Đề án của Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh kèm theo.
Điều 2. Giao Giám đốc các Sở Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội, Y tế, Văn hóa - Thông tin, Thể dục - Thể thao triển khai thực hiện.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày, kể từ ngày ký và được đăng Công báo tỉnh.
Điều 4. Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thủ trưởng các Sở, ban, ngành tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
| TM. UỶ BAN NHÂN DÂN |
ĐỀ ÁN
ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC, DẠY NGHỀ, Y TẾ, VĂN HÓA, THỂ DỤC THỂ THAO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH LONG, GIAI ĐOẠN 2006 - 2010.
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1575/2006/QĐ-UBND, ngày 03/8/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long)
Tháng 9 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/1997/NQ-CP, về phương hướng và chủ trương xã hội hóa trong hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa với mục đích vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, trong toàn xã hội nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ của nhân dân trong các lĩnh vực này.
Trong các năm qua, việc thực hiện xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao trên địa bàn tỉnh tuy có đạt một số kết quả nhất định, nhưng các hoạt động này còn mang tính tự phát, chưa xây dựng kế hoạch thực hiện một cách cụ thể; chưa xác định các hoạt động cần xã hội hóa trong từng lĩnh vực và xã hội hóa đến mức độ nào..., nên hiệu quả của công tác xã hội hóa trong các lĩnh vực văn hóa xã hội chưa đạt được như mong muốn.
Để nâng cao hiệu quả việc thực hiện chủ trương xã hội hóa trên các lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, tạo điều kiện cho các hoạt động trong lĩnh vực này phát triển nhanh hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân, đồng thời xã hội hóa cũng là giải pháp để thực hiện công bằng xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước được thể hiện về mặt hưởng thụ và đóng góp, cống hiến cho xã hội theo khả năng thực tế của từng người, từng địa phương.
Căn cứ Nghị quyết số 30/2006/NQ-HĐND, ngày 16/02/2006 của Hội đồng nhân dân tỉnh về chương trình xây dựng Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long năm 2006, Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng Đề án xã hội hóa các hoạt động giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2010.
A. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN XÃ HỘI HOÁ TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HÓA VÀ THỂ DỤC THỂ THAO, THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 90/1997/NQ-CP CỦA CHÍNH PHỦ Ở VĨNH LONG
Trong thời gian qua, việc thực hiện Nghị quyết số 90/1997/NQ-CP, ngày 21/8/1997 của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP , ngày 19/8/1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao đã đạt một số kết quả cụ thể như sau:
1. Xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo:
a) Về đa dạng hoá các loại hình giáo dục - đào tạo:
Hiện nay, ngoài hệ thống trường công lập, trong 117 cơ sở giáo dục mầm non trong toàn tỉnh có 8 nhà trẻ và 3 trường mẫu giáo tư thục, số cháu ngoài công lập chiếm tỷ lệ 27,3% (trong đó nhà trẻ 81,55%, mẫu giáo 14,28%) so với tổng số cháu toàn tỉnh. Đối với giáo dục phổ thông, bậc tiểu học (TH) và trung học cơ sở (THCS) do đang thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục (PCGD) nên chưa có trường ngoài công lập, bậc trung học phổ thông (THPT) có 07 trường bán công, với 13.099 học sinh, chiếm tỷ lệ 35,29% so với tổng số học sinh trung học phổ thông. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có 01 trường đại học dân lập.
Nhìn chung, mạng lưới trường lớp, học sinh ngoài công lập ở Vĩnh Long có phát triển nhưng còn chậm so với yêu cầu. Học phí của các trường bán công còn thấp (35.000 đ/hs/tháng), nên không đủ trang trải kinh phí hoạt động thường xuyên. Việc chuyển đổi hình thức, cơ chế hoạt động của trường ngoài công lập theo đúng các quy định hiện hành còn nhiều lúng túng. Các chính sách hỗ trợ của Trung ương và địa phương chưa đủ để tác động mạnh vào việc phát triển qui mô cũng như chất lượng giáo dục của các loại trường này.
b) Công tác vận động toàn dân chăm lo sự nghiệp giáo dục:
Hoạt động của Hội đồng giáo dục (HĐGD) ở các huyện, thị xã mang lại hiệu quả khá rõ nét, nhất là việc huy động các ban, ngành, đoàn thể và nhân dân hỗ trợ các hoạt động trọng tâm của ngành. Hội Khuyến học được hình thành lập từ tỉnh đến cơ sở, hoạt động của các tổ chức hội đã đạt nhiều kết quả, nhất là trong việc huy động sức dân để chăm lo tu sửa, chỉnh trang trường lớp, tạo cảnh quan sư phạm, xây dựng Quỹ hỗ trợ giáo dục, thành lập các quỹ học bổng, vận động học sinh đến trường, hàng năm vận động được hàng chục tỷ đồng để cấp học bổng cho học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó…
Ngành Giáo dục - Đào tạo đã phối hợp với Hội Khuyến học các cấp hình thành được Trung tâm Học tập cộng đồng ở tất cả các xã, phường, thị trấn trong tỉnh. Ngoài ra, Trung tâm Giáo dục thường xuyên cũng được thành lập ở 07 huyện, thị xã. Đây là những mô hình mới nhằm đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng và thường xuyên của nhân dân.
c) Về huy động nguồn lực:
Cùng với các nguồn vốn Trung ương (Chương trình mục tiêu, chương trình kiên cố hóa), ngân sách tỉnh, huyện và nhân dân đóng góp nên cơ bản đã xóa được phòng học tre lá và chống xuống cấp các phòng học.
Tình hình đầu tư và đóng góp xây dựng cơ sở vật chất.
(Triệu đồng)
Năm | Tổng vốn đầu tư (A) | Vốn ngân sách (B) | Vốn huy động nhân dân (C) | Tỉ lệ vốn nhân dân (C/A) | Số phòng học mới xây | Số phòng học sửa chữa và nâng cấp |
2001 | 39.865 | 36.908 | 2.957 | 7,41% | 413 | 170 |
2002 | 68.338 | 64.872 | 3.466 | 5,07% | 548 | 163 |
2003 | 44.851 | 42.956 | 1.895 | 4,22% | 255 | 119 |
2004 | 41.297 | 40.593 | 704 | 1,70% | 224 | 126 |
2005 | 29.940 | 29.771 | 169 | 0,56% | 338 | 115 |
Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, các địa phương và nhân dân đã hỗ trợ kinh phí, tiền của, vật liệu xây dựng và cả ngày công lao động để xây dựng, sửa chữa trường lớp, bàn ghế học sinh, nhà tập thể giáo viên,… kể cả việc hiến đất xây dựng trường. Trong những năm qua đã có 60 phụ huynh học sinh ủng hộ hơn 32 ha đất, trong đó có nhiều gia đình hiến từ 1.000m2 đến 4.000m2.
2. Xã hội hóa trong lĩnh vực đào tạo nghề:
Tình hình đào tạo nghề ở tỉnh trong thời gian gần đây có chiều hướng phát triển, đặc biệt là dạy nghề cho lao động nông thôn. Từ nhu cầu của thị trường lao động, công tác đào tạo nghề đã được đa dạng hóa để huy động các nguồn lực trong xã hội phục vụ công tác này. Đã huy động các năng lực sẵn có từ các trường chuyên nghiệp, trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề, trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước, ngày càng có nhiều đoàn thể, tư nhân tham gia công tác dạy nghề.
Đến cuối năm 2005 toàn tỉnh có:
+ 03 Trường Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề: Trường Cao đẳng Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long, Trường Cao đẳng Xây dựng Miền Tây và Trường Trung học Kỹ thuật - Lương thực Thực phẩm.
+ 02 Trường dạy nghề: Trường Dạy nghề Vĩnh Long và Trường Dạy nghề số 9 thuộc Bộ Quốc phòng.
+ 03 Trung tâm dịch vụ việc làm có dạy nghề: Trung tâm Dịch vụ việc làm thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Trung tâm Dịch vụ việc làm thuộc Liên đoàn Lao động tỉnh, Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh.
+ 07 Trung tâm dạy nghề ở tất cả các huyện, thị xã.
+ 03 Cơ sở dạy nghề tư nhân (cơ sở Mỹ Thuận, Đông Thuận ở Thị xã Vĩnh Long và cơ sở Hoàng Nhật Tiến ở huyện Long Hồ).
Các trường dạy nghề chủ yếu đào tạo dài hạn, học sinh khi ra trường có tay nghề bậc 2/6 hoặc bậc 3/7 với các nghề phục vụ cho sản xuất công nghiệp, sửa chữa cơ khí, xây dựng, điện, nước... Các trung tâm dạy nghề - giới thiệu việc làm và Trường Dạy nghề số 9 (thuộc Bộ Quốc phòng) đào tạo các nghề có thời gian ngắn như: may công nghiệp, lái xe, sửa chữa ô tô, xe máy, uốn tóc, nữ công gia chánh...
Ngoài ra, còn có hình thức dạy nghề trong các doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu sản xuất của đơn vị. Hình thức truyền nghề cũng khá phát triển trong dân cư với nhiều ngành nghề được ưa chuộng và dễ kiếm việc làm như: thợ kim hoàn, may mặc, mộc... Dạy nghề cho thanh niên nông thôn, dạy nghề phổ thông trong các trường học, Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp và dạy nghề... đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu học nghề của nhân dân trong tỉnh.
Nhìn chung, việc xã hội hoá trong lĩnh vực đào tạo nghề còn chậm. Nhận thức trong một bộ phận các ngành, các cấp chưa coi dạy nghề là lĩnh vực ưu tiên trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực nên chưa có sự quan tâm đầy đủ. Trong xã hội, tư tưởng coi dạy nghề đơn thuần là một phúc lợi do Nhà nước đầu tư, nên ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước; đồng thời, niềm tin và sự ủng hộ đối với các cơ sở dạy nghề ngoài công lập còn hạn chế. Tư nhân chưa đầu tư mở những cơ sở dạy nghề có quy mô lớn vì không đủ vốn để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và lực lượng giáo viên; vốn đầu tư cao mà khả năng thu hồi vốn chậm, lợi nhuận thấp chưa đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư.
3. Xã hội hoá trong lĩnh vực y tế:
Về đa dạng hoá các loại hình hoạt động chăm sóc sức khỏe:
Bên cạnh việc củng cố và phát triển hệ thống y tế Nhà nước, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở, y tế vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc, công tác xã hội hóa các hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng đã được quan tâm và mang lại những kết quả tích cực.
Y tế tư nhân: Phát triển rộng khắp và đã đóng góp tích cực trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng; các cơ sở y tế tư nhân góp phần đáp ứng một phần nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, tạo điều kiện thuận tiện cho người dân tiếp cận với các dịch vụ y tế, góp phần làm giảm áp lực tại các cơ sở y tế Nhà nước. Y tế tư nhân trên địa bàn tỉnh bao gồm các loại hình: phòng khám bệnh, nhà thuốc, đại lý thuốc, dịch vụ răng hàm giả, tiêm chích, thay băng, phòng chẩn trị y học dân tộc... Đến nay, toàn tỉnh có 1.262 cơ sở hành nghề y dược tư nhân được cấp phép, trong đó có 277 phòng khám, 53 nhà thuốc, 470 đại lý thuốc, 104 dịch vụ nha khoa, 124 cơ sở tiêm chích, 05 nhà hộ sinh, 229 cơ sở y học dân tộc. Ngoài ra, còn tổ chức hoạt động khám chữa bệnh ngoài giờ tại các cơ sở y tế Nhà nước (Bệnh viện Đa khoa tỉnh, bệnh viện huyện, trạm y tế xã, phường) giúp tăng thêm dịch vụ y tế, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, tận dụng nguồn lực sẵn có của các cơ sở khám chữa bệnh. Song song đó, tỉnh cũng đã đào tạo 451 nhân viên y tế ấp - khóm và đang triển khai xây dựng Làng văn hóa có tiêu chí sức khoẻ và xây dựng chuẩn quốc gia về y tế xã. Kết hợp khá tốt đông - tây y trong hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là tuyến cơ sở.
Ngành y tế kết hợp với Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh thực hiện Chương trình số 12 (quân dân y kết hợp) để thực hiện phối hợp hành động khi có chiến tranh, thiên tai, thảm hoạ, sơ cấp cứu, chăm sóc sức khoẻ ban đầu nơi đơn vị quân đội thường trú, khám tuyển nghĩa vụ quân sự.
Tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh và các bệnh viện huyện đều có tổ từ thiện cấp cháo, nước sôi và cơm miễn phí cho các đối tượng nghèo kể cả bệnh nhân và thân nhân người bệnh. Các phòng khám nhân đạo, từ thiện trên địa bàn tỉnh chủ yếu là các phòng khám Đông y ở các chùa, Hội Chữ thập đỏ, Hội Đông y và bệnh viện Y học dân tộc thị xã Vĩnh Long. Ngoài ra, Quỹ hỗ trợ bệnh nhân nghèo với sự đóng góp của cá nhân, tổ chức trong và ngoài tỉnh đã hỗ trợ tích cực cho những bệnh nhân thuộc diện nghèo trong quá trình điều trị các bệnh hiểm nghèo.
Chương trình xoá mù loà, phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng và các phong trào bảo vệ sức khoẻ khác đã tạo được sự chú ý của cộng đồng, góp phần quan trọng trong công tác phòng bệnh, phòng dịch, bảo vệ môi trường và thực hiện thành công các chương trình y tế quốc gia có mục tiêu. Đến 5/2004 tỉnh Vĩnh Long đã cơ bản hoàn thành chương trình đem lại ánh sáng cho người mù, người tàn tật và gia đình của họ đều được tập huấn cách chăm sóc và phục hồi chức năng để họ tự tập luyện tại nhà...
Nhìn chung, xã hội hóa trong lĩnh vực y tế chuyển biến khá nhanh, đạt hiệu quả khá cao, nhất là lĩnh vực chăm sóc sức khỏe ban đầu và y tế dự phòng. Hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực khám và điều trị bệnh đạt tốc độ nhanh. Các cơ sở y dược tư nhân (đông, tây y) phát triển đáp ứng được một phần đáng kể nhu cầu khám và điều trị bệnh ngày càng tăng của nhân dân, giảm bớt quá tải cho các bệnh viện công lập. Tuy nhiên, số người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện còn thấp. Chính sách thu viện phí còn mang tính chất bình quân, dàn đều; các bệnh viện, cơ sở y tế ngoài công lập qui mô nhỏ, chủ yếu mới cung cấp các dịch vụ khám chữa bệnh thông thường; các chính sách hỗ trợ của Nhà nước về tín dụng, đất và địa điểm xây dựng còn nhiều bất cập.
4. Xã hội hoá trong lĩnh vực văn hoá:
Hoạt động văn hóa ở cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực. Trong phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đến nay, toàn tỉnh có 37 (34,5%) xã, phường, 639 (75,53%) ấp, khóm, 182.446 gia đình (85,6%) và 1.044 (77,8%) cơ quan, đơn vị được công nhận danh hiệu văn hóa. Một số lễ hội truyền thống như: lễ hội Công Thần Miếu, Văn Thánh Miếu, Lăng Ông Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn... được nghiên cứu khôi phục bảo tồn; các đội nhóm văn nghệ không chuyên của các cơ quan, đoàn thể, các câu lạc bộ tài tử, các đội văn nghệ của đồng bào dân tộc Khơmer được củng cố và phát triển.
Từ nguồn đầu tư của Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân, hoạt động văn hóa chuyên ngành cũng đã xuất hiện một số mô hình xã hội hóa, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Đến nay, toàn tỉnh có trên 200 tủ sách, điểm đọc sách ở ấp, khóm, 900 điểm chiếu video, 450 điểm karaoke, 05 đoàn nghệ thuật, 02 cơ sở in, 100 cơ sở in lụa và khoảng 3.000 cơ sở dịch vụ văn hóa (đại lý sách báo, photocopy...) do tư nhân đầu tư.
Ngoài ra, từ nguồn ngân sách Nhà nước, tỉnh đã đầu tư xây dựng hệ thống thư viện từ tỉnh đến huyện, thị xã, 01 đoàn ca múa nhạc, 01 công ty in, điều tra, thống kê, xếp loại và trùng tu 09 di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia, 13 di tích cấp tỉnh và 450 di tích phổ thông trên địa bàn tỉnh. Đồng thời cũng đã tổ chức đào tạo 360 công chức hệ Đại học và Trung cấp, tập huấn chuyên môn cho hơn 4.000 lượt diễn viên, cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - thông tin.
Nhìn chung, công tác xã hội hoá hoạt động văn hóa đã phát triển trên nhiều lĩnh vực, với nhiều loại hình hoạt động phong phú, đa dạng. Nhân dân đã tham gia đóng góp công sức vào nhiều hoạt động như trùng tu di tích, hoạt động lễ hội, văn nghệ quần chúng, các dịch vụ văn hoá… Xã hội hoá hoạt động văn hóa đã góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đồng thời cũng đã giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, phần lớn tư nhân đầu tư vào lĩnh vực văn hóa có vốn ít, mau sinh lợi; mặt khác các vi phạm trong hoạt động dịch vụ văn hóa vẫn còn nhiều.
5. Xã hội hoá trong lĩnh vực thể dục - thể thao (TDTT):
Trong thời gian qua, toàn tỉnh đã mở ra nhiều loại hình hoạt động phong phú, đa dạng để thu hút người dân tập luyện thể dục thể thao; đến cuối năm 2005, có 16,5% dân số tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, 5.500 gia đình thể thao, 880 câu lạc bộ thể thao, 04 Liên đoàn thể thao, 115 trường phổ thông đảm bảo giáo dục thể chất; ngành thể dục thể thao đã ký liên tịch với 11 cơ quan, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh về công tác phối hợp trong hoạt động thể dục thể thao.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động tập luyện và thi đấu ngày càng phát triển. Hiện có, 27 sân bóng đá, 98 sân bóng đá mini, 16 nhà tập, 32 sân quần vợt, 140 sân cầu lông, 260 sân bóng chuyền và 03 hồ bơi.
Về huy động các nguồn lực trong xã hội phục vụ tập luyện và tham gia thi đấu: hàng năm, ngoài ngân sách Nhà nước, Sở Thể dục - Thể thao cũng đã vận động các tổ chức và cá nhân tài trợ kinh phí để tổ chức các giải thi đấu như: U15, cúp xe đạp đồng bằng sông Cửu Long, bơi vượt sông toàn quốc, quần vợt năng khiếu toàn quốc, cúp xe đạp tỉnh Vĩnh Long mở rộng, bơi nhi đồng đồng bằng sông Cửu Long... với tổng giá trị tài trợ chiếm khoảng 4% so với tổng chi các giải thi đấu thể thao hàng năm. Ngoài ra, hoạt động thể thao thành tích cao cũng được sự tài trợ của Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Long, Công ty Xổ số kiến thiết Vĩnh Long, Công ty Hóa chất Cần Thơ...
Nhìn chung, công tác xã hội hoá thể dục thể thao bước đầu có chuyển biến tích cực, nhiều hoạt động được tổ chức với sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân, nhiều câu lạc bộ các bộ môn thành tích cao được thành lập, vận động được một số doanh nghiệp tài trợ, nhiều thành phần tư nhân tham gia đầu tư hoạt động dịch vụ thể dục thể thao… Tuy nhiên, nhận thức về xã hội hoá trong toàn ngành chưa được quán triệt, còn trông chờ vào ngân sách Nhà nước, công tác vận động sự ủng hộ của xã hội cho các hoạt động thể dục thể thao còn nhiều hạn chế. Việc thành lập các tổ chức xã hội về thể dục thể thao (liên đoàn, hội...) ở một số bộ môn tiến hành chậm. Công tác vận động xã hội đầu tư cơ sở vật chất thể dục thể thao, tổ chức thi đấu, xây dựng trường lớp đào tạo chậm và chưa đều.
Đánh giá chung:
Xã hội hoá là chủ trương lớn, rất đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Nhìn chung, qua 8 năm thực hiện Nghị quyết số 90/CP và 6 năm thực hiện Nghị định số 73/1999/NĐ-CP của Chính phủ, tỉnh đã tổ chức và vận động được sự tham gia của đông đảo nhân dân và các lực lượng xã hội vào các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - xã hội.
Hệ thống các cơ sở ngoài công lập đã đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu của xã hội, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm qua. Các cơ sở ngoài công lập cũng tạo thêm việc làm cho bộ phận người lao động. Việc huy động nguồn lực xã hội cũng được chú ý, tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân, các lực lượng xã hội tham gia đóng góp nhân lực, trí lực cho sự nghiệp văn hóa - xã hội.
Những kết quả đạt được trong thời gian qua về công tác xã hội hóa ở tỉnh là đáng trân trọng. Tuy nhiên, so với với yêu cầu thì hoạt động xã hội hóa các lĩnh vực nêu trên còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế và bất cập:
- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa chưa được kịp thời phổ biến, tuyên truyền sâu rộng, nhận thức của xã hội còn chưa đầy đủ, thậm chí còn những biểu hiện lệch lạc. Tư tưởng trông chờ ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước vẫn còn khá nặng nề trong các ngành, các cấp và xã hội. Mặt khác, một số cán bộ, công chức lại nặng về huy động sự đóng góp của xã hội và xem vấn đề xã hội hóa trong các lĩnh vực văn hóa xã hội giống như các hoạt động kinh tế đơn thuần, xem nhẹ việc phát huy trí tuệ, nguồn nhân lực của đông đảo đội ngũ trí thức, các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội tham gia thực hiện chủ trương xã hội hóa.
- Tiến độ xã hội hóa còn chậm so với tiềm năng và còn xa so với chỉ tiêu định hướng của Nghị quyết 90. Mức độ xã hội hóa không đồng đều giữa các ngành, các vùng, các khu vực.
- Sự quản lý của Nhà nước đối với các lĩnh vực văn hóa - xã hội chưa thật sự đổi mới, chưa đáp ứng được quá trình xã hội hóa, hướng dẫn chưa cụ thể, chỉ đạo chưa sâu sát, các mô hình tốt chưa được nhân rộng. Mặt khác, sự quản lý của Nhà nước chưa chặt chẽ, các chính sách còn mang tính tình thế, chưa đồng bộ dẫn đến lúng túng khó thực thi. Công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực xã hội hóa văn hóa - xã hội chưa được thường xuyên.
- Việc thực hiện các chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động văn hóa - xã hội (thủ tục xin thành lập, thuê trụ sở, xin giao đất, tín dụng...) còn rất phức tạp. Công việc xét duyệt phải qua nhiều khâu, nhiều cấp, chậm trễ, gây cản trở và làm nản lòng các nhà đầu tư.
- Công tác tham mưu của các ngành về triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa chưa cụ thể, sát hợp và thường xuyên; chưa xác định được lĩnh vực, mức độ và lộ trình xã hội hóa ở từng ngành, phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương.
- Về học phí, viện phí, lệ phí: Với mức thu học phí như hiện nay của các trường bán công chỉ đảm bảo 27% chi cho hoạt động thường xuyên, nên không có điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo. Chính sách thu viện phí chậm được sửa đổi, mang tính chất bình quân, dàn đều cho các loại đối tượng.
B. ĐỀ ÁN ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HOÁ CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HÓA, THỂ DỤC THỂ THAO THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 05/2005/NQ-CP , CỦA CHÍNH PHỦ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH LONG GIAI ĐOẠN 2006 - 2010.
I. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG:
1. Quan điểm:
Xã hội hóa (XHH) hoạt động văn hóa - xã hội (VH-XH) là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội; xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo ra và phát triển môi trường kinh tế - xã hội cho các hoạt động văn hoá xã hội; đa dạng hoá các hình thức hoạt động trong lĩnh vực văn hoá xã hội, mở rộng cơ hội cho các tầng lớp nhân dân được tham gia một cách chủ động và bình đẳng vào các hoạt động xã hội; đa dạng hoá các nguồn đầu tư, khai thác các nguồn nhân lực và vật lực trong xã hội.
2. Định hướng:
Củng cố các cơ sở công lập để làm nòng cốt về chất lượng và hướng dẫn hoạt động đối với các cơ sở ngoài công lập.
- Cùng với đẩy mạnh xã hội hóa ở thị xã Vĩnh Long, huyện Bình Minh và các huyện có điều kiện kinh tế phát triển, tỉnh tập trung đầu tư ưu tiên phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao cho các vùng còn nhiều khó khăn, vùng nghèo, dân tộc, nhất là các xã đặc biệt khó khăn.
- Chuyển dần các cơ sở công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích, có đầy đủ quyền tự chủ về tổ chức và quản lí, thực hiện đúng mục tiêu và nhiệm vụ, hạch toán đầy đủ chi phí, cân đối thu chi. Trên cơ sở chính sách thu phí mới của Trung ương ban hành mà nghiên cứu thực hiện ở địa phương theo hướng mức phí phải trang trải đủ các chi phí cần thiết, có tích lũy để đầu tư phát triển và xóa bỏ các khoản thu khác. Thực hiện chế độ thu phí mới đi đôi với việc thực hiện tốt các chính sách ưu đãi các đối tượng chính sách và trợ giúp người nghèo.
- Phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập với 2 loại hình dân lập và tư thục. Có lộ trình chuyển các cơ sở bán công hiện nay sang dân lập, tư thục hoặc công lập hoạt động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích. Các cơ sở ngoài công lập có thể hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận hoặc lợi nhuận; trong đó khuyến khích hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận với các chính sách ưu đãi của Nhà nước.
- Tỉnh có chính sách hỗ trợ, tạo môi trường phát triển, môi trường cạnh tranh lành mạnh, môi trường thân thiện gắn với cải cách hành chính để thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập phát triển cả qui mô và chất lượng.
II. MỤC TIÊU CHUNG ĐẾN 2010:
Với quan điểm trên, xã hội hóa phải nhằm đạt được hai mục tiêu lớn:
- Thứ nhất: Phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao.
- Thứ hai: Tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao ở mức độ ngày càng cao.
III. NHIỆM VỤ VÀ CHỈ TIÊU ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN 2010
1. Giáo dục - đào tạo:
Phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo; đẩy mạnh phong trào xây dựng xã hội học tập. Phát triển nhanh số lượng và chất lượng các cơ sở giáo dục - đào tạo ngoài công lập. Phấn đấu đến năm 2010, số học sinh ngoài công lập hệ mầm non từ 50 đến 60%, tiểu học 1%, trung học cơ sở 2%, trung học phổ thông 35 - 40%, học sinh học nghề 40%, học sinh - sinh viên hệ trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học từ 15 - 20% và đạt các mục tiêu thuộc Kế hoạch xây dựng xã hội học tập tỉnh Vĩnh Long đến 2010.
a) Giáo dục mầm non:
Từ năm học 2006 - 2007, không mở các trường mầm non công lập; từ nay đến năm học 2008 - 2009, chuyển dần các cơ sở giáo dục mầm non công lập có đủ điều kiện sang thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Trước mắt, thực hiện ở thị xã, thị trấn. Xác định lộ trình cụ thể chuyển các cơ sở giáo dục mầm non sang hình thức ngoài công lập. Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội và nhân dân đóng góp kinh phí, đất đai xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia.
Phấn đấu đến năm học 2007 - 2008, tỷ lệ trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập chiếm khoảng 40 - 45%, đến năm học 2009 - 2010 phải đạt 50 - 60%.
b) Giáo dục phổ thông:
Đối với giáo dục tiểu học, phấn đấu đến năm học 2009 - 2010 có 15% trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia và 20% học sinh tiểu học thực hiện học 02 buổi/ngày, khuyến khích mở trường tiểu học dân lập hoặc tư thục ở thị xã Vĩnh Long và thị trấn Cái Vồn.
Đối với giáo dục trung học cơ sở, phấn đấu đến năm học 2009 - 2010 có 20% trường đạt chuẩn quốc gia, khuyến khích mở 01 trường dân lập hoặc tư thục ở thị xã Vĩnh Long và chuyển trường trung học cơ sở Lê Quý Đôn sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính.
Đối với giáo dục trung học phổ thông, có lộ trình cụ thể chuyển dần các trường trung học phổ thông bán công hiện nay sang dân lập hoặc tư thục, đồng thời chuyển một số trường trung học phổ thông công lập có chất lượng khá tốt sang thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính; từ nay đến năm học 2007 - 2008, tổ chức thực hiện trước ở thị xã Vĩnh Long.
c) Giáo dục chuyên nghiệp:
Đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính cho các trường Cao đẳng công lập. Chuyển một số trường Cao đẳng công lập có nguồn thu sự nghiệp sang hoạt động theo cơ chế tự đảm bảo toàn bộ hoặc tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên.
Đến năm 2010, trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính và trường Cao đẳng cộng đồng thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính.
d) Giáo dục thường xuyên:
Mở rộng đào tạo từ xa và các phương thức đào tạo không chính quy khác. Tạo cơ hội cho đông đảo người lao động được tiếp tục học tập, được đào tạo lại, được bồi dưỡng ngắn hạn, định kỳ và thường xuyên. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt Kế hoạch xây dựng xã hội học tập, giai đoạn 2006 - 2010.
2. Dạy nghề:
Khuyến khích thành lập các cơ sở dạy nghề ngoài công lập. Phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ học sinh học nghề ngoài công lập chiếm 30%.
Nâng cấp trường Dạy nghề Vĩnh Long thành trường Trung học nghề, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Tăng đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm dạy nghề ở các huyện, thị xã.
Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, để đến năm 2010, chuyển các cơ sở dạy nghề công lập hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ.
3. Y tế:
Phấn đấu đến năm 2010 thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân và các hình thức chi trả trước đạt tối thiểu 80% dân số; hoàn thành 100% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; từng bước chuyển các bệnh viện công lập tuyến tỉnh và các bệnh viện đa khoa ở các huyện có điều kiện kinh tế phát triển sang hoạt động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích, từng bước cân đối thu chi.
Thực hiện chế độ viện phí mới theo Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BYT-BTC-BLĐTBXH về bổ sung Thông tư liên tịch số 14/TTLB, ngày 30/9/1995 của Liên Bộ Y tế - Tài chính - Lao động, Thương binh và Xã hội - Ban Vật giá Chính phủ hướng dẫn thực hiện thu một phần viện phí; từng bước phát triển bảo hiểm y tế tự nguyện, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân và thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi.
Phấn đấu đến 2010 có từ 1 đến 2 bệnh viện tư và các bệnh viện công lập tuyến tỉnh; bệnh viện đa khoa ở các huyện tổ chức các khoa khám, chữa bệnh theo yêu cầu. Phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ giường bệnh ngoài công lập chiếm từ 10 - 15%. Ngoài ra, các bệnh viện áp dụng một trong các mô hình: huy động vốn của cán bộ công chức (dưới dạng cổ đông), để đầu tư trang thiết bị và cơ sở hạ tầng (phòng ốc, trang thiết bị khám chữa bệnh) hoặc liên doanh, liên kết với công ty cung ứng trang thiết bị.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động từ thiện, cung cấp, hỗ trợ các trang thiết bị y tế, hỗ trợ bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện, vận động hiến máu tình nguyện và hỗ trợ khám, chữa bệnh. Tổ chức các hình thức khám chữa bệnh khác: Bác sĩ gia đình, chăm sóc sức khỏe tại nhà. Tổ chức tốt việc khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi.
Đến năm 2007, 80% trạm y tế xã (phường, thị trấn) có hoạt động khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền và đến năm 2010, 100% trạm y tế xã (phường, thị trấn) có hoạt động khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với các cơ sở y, dược bằng cách tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Thực hiện đấu thầu cung ứng thuốc tại các bệnh viện công. Qui hoạch lại mạng lưới hành nghề dược ngoài công lập theo quy định của Bộ Y tế. Có kế hoạch điều chỉnh các loại hình hành nghề y, dược tư nhân để đến hết năm 2010 không có loại hình hành nghề y, dược tư nhân ngoài giờ của cán bộ, công chức như Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân đã quy định.
4. Văn hoá:
Khuyến khích các đơn vị, tổ chức ngoài công lập phối hợp với các tổ chức công lập xây dựng đời sống văn hóa theo định hướng của Nhà nước, xây dựng các thiết chế văn hóa thông tin ở cơ sở theo nguyên tắc tự tổ chức, tự quản lí và chịu sự quản lí về mặt nhà nước của cơ quan có thẩm quyền.
Xã hội hóa các hoạt động văn hóa cần tập trung phát triển mạnh ở thị xã Vĩnh Long các thị trấn, thị tứ và các vùng kinh tế phát triển. Nhà nước tiếp tục ưu tiên đầu tư cho các hộ nghèo, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc Khơmer. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các cơ sở văn hóa ngoài công lập hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận.
Các bảo tàng, ban quản lí các di tích, thư viện tỉnh, huyện tiếp tục được duy trì và phát triển dưới hình thức công lập nhưng theo hướng là các đơn vị cung ứng dịch vụ văn hóa nhằm duy trì, bảo tồn và phổ biến các giá trị văn hóa.
Công ty in, cơ quan báo chí, trung tâm văn hóa - thông tin, các đội thông tin lưu động là những đơn vị, tổ chức truyền tải những định hướng, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước nên tiếp tục được duy trì và phát triển dưới hình thức công lập theo hướng là các đơn vị cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực xuất bản, báo chí, thông tin tuyên truyền.
Củng cố, phát triển Đoàn ca múa tỉnh theo hướng là một đơn vị biểu diễn nghệ thuật công lập hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ biểu diễn nghệ thuật.
Nâng chất lượng lễ hội truyền thống của các huyện, thị xã, thành phố theo hướng giáo dục lịch sử, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và loại bỏ những yếu tố mê tín dị đoan. Nghiên cứu tìm những loại hình văn hoá phù hợp để dần dần hình thành một mảng văn hoá đặc trưng ở vùng sông nước. Gắn văn hoá với du lịch để hình thành các nhóm ca nhạc tài tử, các tụ điểm hoạt động chuyên nghiệp phục vụ du lịch. Ngân sách Nhà nước sẽ tập trung đầu tư vào các công trình văn hoá, di tích lịch sử trọng điểm; các công trình, hoạt động văn hoá khác thực hiện theo cơ chế xã hội hóa (tạo nguồn thu từ hoạt động dịch vụ, tài trợ...).
Tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư". Vận động phát huy các loại hình văn nghệ quần chúng (các câu lạc bộ: đờn ca tài tử, hát với nhau...), để thu hút nhân dân vào các sinh hoạt lành mạnh.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, nhất là các dịch vụ văn hóa: vũ trường, karaoke, điểm chiếu phim, internet...
5. Thể dục - thể thao:
Từng bước chuyển các cơ sở thể dục thể thao công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích, từng bước cân đối thu chi; chuyển một số cơ sở thể dục thể thao công lập sang loại hình ngoài công lập. Toàn tỉnh đến năm 2010 có 23 - 25% dân số luyện tập thể dục thể thao thường xuyên, 30% xã có sân vận động, thực hiện từng bước chuyên nghiệp hóa một số môn thể thao mũi nhọn của tỉnh (bóng chuyền, bóng bàn, điền kinh, bơi lội, xe đạp, bóng đá); tiếp tục củng cố, phát triển các liên đoàn, câu lạc bộ, hội, nhóm tập luyện thể dục thể thao. Phấn đấu đến năm 2010 tất cả các đội tuyển thể thao thành tích cao của tỉnh, 50% giải thể thao cấp tỉnh và 25% giải thể thao cấp huyện có tài trợ.
Đẩy mạnh xã hội hóa thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao. Xây dựng các câu lạc bộ, tụ điểm thể dục thể thao ở các cơ quan, doanh nghiệp, các xã, phường, đặc biệt là ở nông thôn; chú trọng tuyên truyền, hướng dẫn phát triển các loại hình tổ chức thể dục thể thao quần chúng. Thành lập các liên đoàn, câu lạc bộ các bộ môn thể thao có thành tích cao theo hướng chuyên nghiệp hoá, bằng phương thức nhà nước đầu tư ban đầu, sau đó từng bước chuyển dần sang hạch toán độc lập. Huy động nguồn tài trợ từ các tổ chức kinh tế xã hội theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng phối hợp tổ chức thi đấu các môn thể thao quần chúng, kể cả thi đấu các môn thể thao thành tích cao.
IV. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU:
1. Về cơ chế chính sách:
Thực hiện có hiệu quả một số giải pháp về cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện chủ trương xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa - xã hội như sau:
- Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư cơ sở kinh tế - xã hội chủ chốt, nhằm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế - xã hội của đất nước. Tiếp tục đầu tư theo chương trình mục tiêu quốc gia, đầu tư có trọng điểm để thúc đẩy phát triển và bảo đảm công bằng xã hội. Rà soát, bổ sung các chính sách đòn bẩy kinh tế đủ mạnh (đất đai, tín dụng, thuế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm lao động...) trên tất cả các lĩnh vực văn hóa - xã hội, để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản trong khuôn khổ của pháp luật, nhằm vừa tạo thêm nguồn lực để phát triển, vừa nâng cao trách nhiệm của cộng đồng đối với việc xây dựng một xã hội công bằng văn minh.
- Trong năm 2006, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các ngành liên quan, căn cứ các quy định hiện hành của Trung ương và tình hình thực tế của địa phương tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành các chế độ chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa và thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh; trong đó cần phân biệt rõ các cơ chế, chính sách đối với những hoạt động có lợi nhuận (dịch vụ văn hóa, y dược tư nhân, thể dục thể thao...) và phi lợi nhuận (xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, thư viện ấp, khóm, bảo tồn, bảo tàng...), để thúc đẩy phát triển hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản đến cả những vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn và bảo đảm tính công bằng trong quá trình thực hiện chủ trương xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa - xã hội.
2. Về công tác giáo dục, tuyên truyền:
Công tác tuyên truyền, vận động, cung cấp thông tin cho các lực lượng xã hội về xã hội hóa tuy đã có, nhưng chưa sâu rộng, chưa tạo được sự tin tưởng về tính nhất quán của chính sách, nhiều nơi nhân dân chưa hiểu đúng ý nghĩa mục đích, nên còn e ngại, chưa muốn bỏ vốn ra đầu tư, các hệ thống giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao ngoài Nhà nước chủ yếu chỉ phát triển ở vùng đô thị, trong các lĩnh vực có lãi cao, dễ thu hồi vốn và Nhà nước khó kiểm tra, kiểm soát, nhiều khoản nhân dân cần đóng góp cho giáo dục, y tế, văn hóa, v.v... có lúc bị gây tâm lý nặng nề, gò ép, có lúc lại bị thương mại hóa, ảnh hưởng không tốt đến tư tưởng của quần chúng và ý nghĩa của công tác xã hội hóa. Do đó, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động, cung cấp thông tin nâng cao nhận thức của mọi người, nhất là các đối tượng đã, đang và sẽ xây dựng, thành lập các cơ sở ngoài công lập về xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa - xã hội. Nhất thiết phải tạo được sự tin tưởng về tính nhất quán của chính sách. Ngoài công tác tuyên truyền về bề rộng qua các phương tiện thông tin đại chúng, cần tuyên truyền về bề sâu, theo hướng cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa; gom về một đầu mối như Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư để giới thiệu tiềm năng và quảng bá các lĩnh vực, dự án cần đầu tư của tỉnh và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đã, đang và sẽ xây dựng, thành lập các cơ sở ngoài công lập trên địa bàn tỉnh.
Tăng cường tuyên truyền giáo dục trong cả hệ thống chính trị và trong từng nội bộ các cơ quan, đơn vị đặc biệt là những cán bộ, công chức có liên quan đến công tác thực hiện chủ trương xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa - xã hội.
3. Về huy động các nguồn lực thông qua việc đa dạng hóa các loại hình:
Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức hoạt động, dịch vụ trong các lĩnh vực với giá cả hợp lý để tăng cơ hội cho người nghèo hưởng thụ. Điều chỉnh để hoàn thiện các quy định về mô hình, quy mô, quy chế thành lập, quản lý hoạt động của các đơn vị ngoài công lập theo hướng: có quy định về trách nhiệm xã hội đối với các hoạt động xã hội hóa; phân biệt cơ chế hoạt động của hai loại hình lợi nhuận và phi lợi nhuận, trên cơ sở đó thực hiện cơ chế quản lý theo nguyên tắc: áp dụng các chính sách doanh nghiệp đối với các loại hình lợi nhuận; đồng thời có khuyến khích, ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai, nhân lực, chế độ tài chính và trách nhiệm xã hội (miễn, giảm đối với các đối tượng chính sách) đối với loại hình phi lợi nhuận.
Nhà nước và xã hội coi trọng và đối xử bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở ngoài công lập như các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở công lập. Các cơ sở ngoài công lập cũng phải có một phần trách nhiệm thu nhận và cung cấp dịch vụ cho các đối tượng chính sách xã hội như các cơ sở công lập. Các cơ sở ngoài công lập có trách nhiệm tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và phải chịu sự quản lý Nhà nước của các cơ quan chuyên ngành.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Thành lập Ban chỉ đạo: Thực hiện xã hội hóa lĩnh vực văn hóa - xã hội cấp tỉnh (do Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh làm Trưởng ban) và các ngành có liên quan (do Giám đốc sở, ngành làm trưởng Tiểu ban). Ban chỉ đạo có trách nhiệm nghiên cứu, tham mưu trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành các chính sách ưu đãi xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa - xã hội, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch xã hội hóa lĩnh vực văn hóa xã hội trên địa bàn tỉnh.
- Xây dựng kế hoạch đẩy mạnh phát triển xã hội hóa cụ thể của từng ngành:
Giám đốc các Sở: Giáo dục - Đào tạo, Y tế, Lao động Thương binh - Xã hội, Văn hóa - Thông tin, Thể dục - Thể thao có trách nhiệm xây dựng, tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch xã hội hóa của ngành trên cơ sở Kế hoạch xã hội hóa chung của tỉnh giai đoạn 2006 - 2010, trong đó xác định các hoạt động cần xã hội hóa, mức độ xã hội hóa, các bước đi cụ thể cho từng mốc thời gian và có sơ, tổng kết kịp thời 6 tháng, năm. Uỷ ban nhân dân các huyện, thị có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chuyên môn của địa phương phối hợp với các Sở, ngành liên quan tổ chức xây dựng qui hoạch, kế hoạch cụ thể trên từng địa bàn và tổ chức thực hiện tại địa phương.
Đổi mới công tác qui hoạch, kế hoạch phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội có trọng tâm, trọng điểm; trong đó Nhà nước tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc Khơmer, vùng sâu; có chính sách hỗ trợ các đối tượng chính sách, hộ nghèo; xây dựng các cơ sở công lập trọng điểm để làm nòng cốt hỗ trợ các cơ sở ngoài công lập trên địa bàn. Ở các vùng thuận lợi cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm".
Các Sở, ngành phải công bố công khai, rộng rãi qui hoạch, kế hoạch, định hướng xã hội hóa, mạng lưới, danh mục cụ thể các cơ sở ngoài công lập cần kêu gọi đầu tư theo hướng xã hội hóa và nhu cầu huy động nguồn lực đầu tư trên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút các tổ chức và cá nhân tham gia đầu tư. Tránh trường hợp kêu gọi xã hội hóa một cách chung chung mà không có danh mục, địa điểm đầu tư cụ thể. Từng ngành, từng huyện, xã, phường, thị trấn phải có kế hoạch sử dụng đất, danh mục kêu gọi đầu tư xã hội hóa một cách cụ thể.
- Công tác phối hợp: Đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp, các cơ quan thông tấn báo chí phối hợp với các Sở, ngành, địa phương đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền, phát hiện, phổ biến và nhân rộng các nhân tố điển hình tiên tiến qua các phong trào xã hội hóa. Gắn việc thực hiện xã hội hóa với cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư".
Xã hội hoá là chủ trương lớn, có tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Xã hội hoá các hoạt động văn hóa - xã hội là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp đó nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ của nhân dân; là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động văn hóa - xã hội ở mỗi địa phương; là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội; phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa - xã hội phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn. Đây là cộng đồng trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại địa phương và của từng người dân. Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm bớt phần ngân sách của Nhà nước; trái lại, Nhà nước thường xuyên tìm thêm các nguồn thu để tăng ngân sách chi cho các hoạt động này, đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó.
Vì vậy, các ngành, các cấp cần phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ quan điểm, chủ trương, chỉ đạo của tỉnh về xã hội hóa để tích cực tổ chức thực hiện, đạt hiệu quả cao nhất trong thời gian tới./.
- 1 Nghị quyết 04/2007/NQ-HĐND về phê duyệt kế hoạch đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao tỉnh Ninh Thuận đến năm 2010
- 2 Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐND về việc một số cơ chế, chính sách đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực dịch vụ đô thị, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, nhà ở xã hội, nhà ở tái định cư do Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội ban hành
- 3 Nghị quyết 87/2006/NQ-HĐND về các Đề án đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, dạy nghề tỉnh Bến Tre giai đoạn 2006 – 2010 và kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo tỉnh Bến Tre do Hội đồng nhân dân tỉnh Bến Tre khóa VII, kỳ họp thứ 8 ban hành
- 4 Nghị quyết 35/2006/NQ-HĐND tiếp tục thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh 6 tháng cuối năm 2006 do Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long khóa VII, kỳ họp thứ 7 ban hành
- 5 Thông tư liên tịch 03/2006/TTLT-BYT-BTC-BLĐTB&XH bổ sung thông tư liên bộ 14/TTLB hướng dẫn việc thu một phần viện phí do Bộ Y tế - Bộ Tài chính - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành
- 6 Quyết định 2737/2005/QĐ-UBND về việc Đẩy mạnh xã hội hoá trong các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao giai đoạn 2005-2010 tỉnh An Giang do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành
- 7 Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về việc đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao do Chính Phủ ban hành
- 8 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân 2003
- 9 Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân năm 2003
- 10 Chỉ thị 13/2001/CT-UB về việc đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hoá theo Nghị định 73/1999/NĐ-CP đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao của Thành phố năm 2001 do Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội ban hành
- 11 Nghị định 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao
- 12 Nghị quyết số 90-CP về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá do Chính phủ ban hành
- 13 Thông tư liên bộ 14/TTLB năm 1995 hướng dẫn thu một phần viện phí do Bộ Tài chính - Bộ Y tế - Bộ Lao động, thương binh và xã hội - Ban vật giá Chính phủ ban hành
- 1 Nghị quyết 04/2007/NQ-HĐND về phê duyệt kế hoạch đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao tỉnh Ninh Thuận đến năm 2010
- 2 Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐND về việc một số cơ chế, chính sách đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực dịch vụ đô thị, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, nhà ở xã hội, nhà ở tái định cư do Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội ban hành
- 3 Nghị quyết 87/2006/NQ-HĐND về các Đề án đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, dạy nghề tỉnh Bến Tre giai đoạn 2006 – 2010 và kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo tỉnh Bến Tre do Hội đồng nhân dân tỉnh Bến Tre khóa VII, kỳ họp thứ 8 ban hành
- 4 Quyết định 2737/2005/QĐ-UBND về việc Đẩy mạnh xã hội hoá trong các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao giai đoạn 2005-2010 tỉnh An Giang do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành
- 5 Chỉ thị 13/2001/CT-UB về việc đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hoá theo Nghị định 73/1999/NĐ-CP đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao của Thành phố năm 2001 do Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội ban hành