BỘ NỘI VỤ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ |
Số: 30-NV | Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 1962 |
HƯỚNG DẪN VIỆC CẢI TIẾN TỔ CHỨC, SỬA ĐỔI LỀ LỐI LÀM VIỆC CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
Kính gửi: Ủy ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh và khu vực vĩnh linh
Thủ tướng Chính phủ đã ra Thông tư số 51-TTg ngày 09/5/1962 về việc cải tiến tổ chức sửa đổi lề lối làm việc của chính quyền cấp xã và các chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã.
Thông tư này hướng dẫn một số điểm cụ thể về việc cảitiến tổ chứcvà lề lối làm việc của chính quyền cấp xã (về việc sửa đổi chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã do thông tư của Liên Bộ Nội vụ, Tài chính, Y tế hướng dẫn riêng).
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU VIỆC CẢI TIẾN TỔ CHỨC, SỬA ĐỔI LỀ LỐI LÀM VIỆC CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ.
Hiện nay, nhiệm vụ chủ yếu của cấp xã là củng cố và tăng cường hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất, cho nên việc củng cố cấp xã là một khâu rất quan trọng trong việc kiện toàn sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ở nông thôn, trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch Nhà nước.
Những tổ chức của chính quyền cấp xã còn cồng kềnh, nhiều cán bộ thoát ly sản xuất hoạt động ở xã. Lề lối làm việc của xã và tỉnh, huyện đối với xã chưa được cải tiến, còn hội họp, giấy tờ quá nhiều, làm cho công tác chậm trễ, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của cán bộ xã.
Vì vậy, việc cải tổ chức và sửa đổi lề lối làm việc của chính quyền xã hiện nay nhằm mục đích:
1. Tổ chức bộ máy gọn, mạnh, tập trung, ăn khớp với các mặt, hoạt động của hợp tác xã. Chỉ để một số rất ít cán bộ chuyên trách công tác ở xã, còn đại bộ phận cán bộ khác về trực tiếp sản xuất và tham gia hoạt động ở thôn, xóm và hợp tác xã.
2. Sửa đổi lề lối làm việc của xã và tỉnh, huyện đối với xã, giảm bớt giấy tờ, hội họp, tăng cường đi sát thực tế sản xuất và đời sống của nhân dân.
3. Trên cơ sở cải tiến tổ chức và lề lối làm việc, thực hiện chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã cho hợp lý.
II. NỘI DUNG CẢI TIẾN TỔ CHỨC VÀ LỀ LỐI LÀM VIỆC
A. Cải tiến tổ chức
1. Đơn giản bộ máy ở xã, đưa cán bộ về hoạt động ở thôn, xóm, hợp tác xã:
Bộ máy ở xã gồm một số rất ít cán bộ của Đảng và chính quyền, thay mặt cấp ủy và Ủy ban hành chính giải quyết hàng ngày, chuẩn bị các cuộc họp, liên hệ với cấp trên, đi dự các cuộc họp do cấp trên triệu tập; thường xuyên đi sát các thôn, xóm, hợp tác xã và các ngành để kiểm tra, đôn đốc thi hành mọi nhiệm vụ công tác, nhất là công tác sản xuất và thực hiện kế hoạch Nhà nước.
Còn cán bộ khác (các cấp ủy viên khác, các ủy viên khác trong Ủy ban hành chính, các cán bộ trong các ban, các ngành của chính quyền và cán bộ của các đoàn thể) sẽ được phân công về hoạt động thiết thực ở các hợp tác xã, các thôn xóm, kết hợp chặt chẽ công tác, với sản xuất; giúp đỡ, đôn đốc các hợp tác xã thực hiện công tác, lấy kinh nghiệm thực tế đóng góp vào sự lãnh đạo chung của toàn xã.
2. Hợp lý hóa các ban chuyên môn của xã:
Nguyên tắc tổ chức các ban chuyên môn phải gọn, mạnh, thiết thực, ăn khớp với các mặt hoạt động của hợp tác xã và các đội sản xuất, có nhiệm vụ rõ ràng và công tác thường xuyên.
Do đó, có thể bỏ bớt những ban và thành phần cán bộ trong ban không cần thiết, sát nhập những ban có quan hệ công tác thường xuyên với nhau.
Đối với những công tác xét không cần thành lập ban thì do ủy viên Ủy ban chuyên trách trực tiếp phụ trách sự giứp đỡ của thư ký văn phòng, hoặc một vài cán bộ giúp việc khi cần thiết.
Những công tác có tính chất đột xuất, từng vụ hoặc một thời gian ngắn, thì có thể thành lập ban lâm thời, khi làm xong việc sẽ giải tán như: ban kiểm tra tài chính, xây dựng trường học v.v …
Căn cứ nhiệm vụ công tác của chính quyền xã hiện nay, tùy tình hình của mỗi xã, có thể thành lập một số ban trong những ban như: ban kế hoạch, ban thống kê, ban lâm ngiệp, trạm bưu điện xã, ban tài chính, văn hóa thông tin, ban giáo dục, ban y tế, ban thể dục thể thao, ban công an, ban chỉ huy xã đội.
Trên đây Bộ tôi nêu lên một số ban cần thiết, các tỉnh có thể tùy hoàn cảnh của địa phương để quy định số ban ở xã cho thích hợp.
3. Bỏ trưởng thôn, trưởng xóm và sắp xếp cán bộ xã hoạt động ở thôn xóm:
Hiện nay, các hợp tác xã đang phát triển lên quy mô toàn thôn, một số ít đã tiến lên quy mô toàn xã, hầu hết nông dân đã tham gia vào hợp tác xã, chỉ còn một số ít người làm ăn riêng lẻ ngoài hợp tác xã.
Mọi việc của chính quyền xã đưa về thôn, xóm đều do ủy viên Ủy ban xã phụ trách thôn, phụ trách hợp tác xã, đôn đốc giúp đỡ hợp tác xã và những nông dân chưa vào hợp tác xã thi hành.
Do đó chức trưởng thôn, trưởng xóm xét ra không cần thiết nữa.
Ở miền núi trường hợp thôn trưởng có uy tín, năng lực, là đại biểu Hội đồng nhân dân thì có thể bổ sung vào Ủy ban hành chính xã phụ trách thôn, nếu không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân thì có thể để trưởng thôn giúp ủy viên phụ trách thôn đó, nếu xét cần thiết.
Cán bộ của chính quyền về hoạt động ở thôn, xóm cần được sắp xếp và phân công hợp lý, ăn khớp và lồng vào trong các bộ phận chuyên môn của hợp tác xã.
B. Cải tiến lề lối làm việc.
1. Lề lối làm việc của xã.
- Bộ phận thường trực chuyên trách công tác ở xã làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo phân công phụ trách. Đối với những chỉ thị nghị quyết của cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính, phải bàn bạc tập thể trước khi thi hành, cán bộ đi họp cấp trên về phải báo cáo cho thường trực biết, công việc của người đi vắng phải có người thay thế; Chủ tịch phải thường xuyên chú ý công tác trọng tâm và nhắc nhở các ủy viên thi hành mọi nhiệm vụ.
- Làm việc phải có chương trình hàng ngày, hàng tuần, và hàng tháng. Mỗi công tác phải có kế hoạch, biện pháp, yêu cầu và thời gian cụ thể.
- Thì giờ làm việc của cán bộ chuyên trách phải quy định chặt chẽ, cần định thì giờ thường trực tại trụ sở để tiếp xúc, giải quyết công việc của nhân dân; dành nhiều thì giờ xuống thôn xóm, hợp tác xã và dành một số buổi để học tập văn hóa và tham gia sản xuất. (Mỗi năm phải bảo đảm ít nhất mỗi người 30 ngày công).
- Mỗi xã phải có lịch sinh hoạt thường kỳ hàng quý, hàng tháng của Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính, các ngành chuyên môn, các đoàn thể, các hợp tác xã và các đội sản xuất.
Các cuộc họp ở xã, thôn, nên làm vào buổi tối, hội nghị phải chuẩn bị chu đáo, thảo luận có trọng tâm, đi họp đúng giờ và không kéo dài quá 10 giờ đêm. Trường hợp thật cần thiết mới triệu tập vào ban ngày.
2. Lề lối làm việc của tỉnh huyện đối với xã.
- Ủy ban hành chính tỉnh, huyện, châu cần cải tiến lề lối làm việc cho phù hợp với việc cải tiến tổ chức và lề lối làm việc ở xã.
- Hàng tháng, hàng quý Ủy ban hành chính huyện cần cho Ủy ban hành chính xã biết chương trình công tác của huyện đối với xã, tránh đưa về xã từng việc hoặc đưa quá nhiều công tác trọng tâm đột xuất xuống xã trong một thời gian.
- Tất cả mọi công văn của các ngành đưa về xã, cần tập trung vào Ủy ban hành chính huyện, và Ủy ban hành chính huyện gửi về Ủy ban hành chính xã nghiên cứu, phân phối và có kế hoạch thi hành.
- Hết sức bớt giấy tờ, tăng cường cán bộ có khả năng về xã để truyền đạt chủ trương, chính sách và thiết thực giúp đỡ ý kiến cho cán bộ xã. Công văn giấy tờ trên gửi về xã cần ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Những mẫu báo cáo, thống kê phức tạp cần bở bớt cột mục không cần thiết và nên in sẵn để cán bộ xã làm được thuận lợi nhanh chóng.
- Các Ủy ban hành chính tỉnh, huyện cần có kế hoạch, biện pháp quản lý các cuộc họp triệu tập cán bộ xã lên dự.
- Nói chung Ủy ban hành chính tỉnh không triệu tập cán bộ xã lên họp ở tỉnh, trừ trường hợp thật cần thiết, mỗi năm không quá 2 lần. Các ngành chuyên môn tỉnh có thể triệu tập đại biểu một vài xã lên báo cáo điển hình, phổ biến kinh nghiệm, nhưng phải được Ủy ban hành chính tỉnh đồng ý.
- Ủy ban hành chính huyện họp 3 tháng một kỳ với ủy viên thường trực xã để kiểm điểm công tác công tác và bàn chương trình công tác hàng quý (theo Thông tư 46-NV ngày 30/9/1961) và hàng tháng chỉtiêu triệu tập ủy viên thường trực xã lên họp nhiều nhất 2 lần, mỗi lần không quá 1 ngày để bàn những vấn đề cụ thể. Đối với các huyện, châu miền núi mỗi tháng chỉ nên triệu tập họp 1 lần, thời gian không quá 2 ngày.
Nội dung các cuộc họp trong một khối công tác, cần thống nhất vào một cuộc họp ở huyện để ủy viên thường trực xã phụ trách khối không phải đi họp nhiều lần và không triệu tập nhiều đại biểu xã đi dự một cuộc họp.
C. Bố trí và phân công cán bộ trong Ủy ban hành chính xã và các ngành.
1. Quy định số cán bộ chuyên trách ở xã:
Mỗi xã tùy theo dân số, khối lượng công tác của Đảng, chính quyền và quy mô hợp tác xã (toàn xã hay toàn thôn) được bố trí từ 3 đến 5 cán bộ chuyên trách công tác Đảng và chính quyền, có thể phân loại xã như sau:
- Xã có nhiều hợp tác xã quy mô thôn, có 5 cán bộ chuyên trách, nếu số hợp tác xã và dân số có ít thì có thể để 4 cán bộ chuyên trách.
- Xã có hợp tác xã quy mô toàn xã, dân số tương đối ít, hoặc xã dân số dưới 500 nhân khẩu có 3 cán bộ chuyên trách.
- Thị trấn có thể được bố trí từ 1 đến 3 cán bộ chuyên trách.
2. Nhiệm vụ và phân công của Ủy ban hành chính xã:
Ủy ban hành chính xã phải tập thể chịu trách nhiệm chung trong việc chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã và thi hành mọi chỉ thị nghị quyết của cấp trên và có phân công rõ ràng:
Số ủy viên và thư ký văn phòng chuyên trách ở xã:
Số uỷ viên chuyên trách phân công nắm chắc các khối công tác sau đây:
- Khối kinh tế tài chính: gồm các công tác kế hoạch, thống kê, sản xuất, khai hoang, thủy lợi, nhân lực, kiến thiết cơ bản, giao thông vận tải, thủ công nghiệp, công thương nghiệp, thu mua, thu thuế, thu nợ, ngân sách xã…
- Khối văn hóa xã hội: gồm các công tác xây dựng trường sở, bổ túc văn hóa, văn hóa quần chúng, vệ sinh phòng bệnh, bệnh xá, nhà hộ sinh, thể dục thể thao, nếp sống mới, thương binh, liệt sĩ, cứu tế xã hội…
- Khối nội chính quân sự: gồm các công tác phổ biến thi hành luật lệ, giữ gìn trật tự an ninh, phòng cháy chữa cháy, bảo vệ tài sản công cộng, tài nguyên thiên nhiên, tư pháp xã, xây dựng lực lượng công an và dân quân xã, nghĩa vụ quân sự, hộ tịch, thi đua…
Việc phân công số ủy viên chuyên trách căn cứ vào khối lượng công tác, số lượng và khả năng cán bộ chuyên trách của mỗi xã mà phân công cho mỗi ủy viên phụ trách một hoặc hai khối, làm trưởng một hoặc hai ban chuyên môn và theo dõi một số thôn và hợp tác xã. Số ủy viên chuyên trách nói chung không tham gia ban quản trị hợp tác xã.
Riêng những xã hợp tác xã quy mô toàn xã thì trừ Chủ tịch, còn Phó Chủ tịch và các ủy viên khác nên tham gia ban quản trị hợp tác xã; nhưng phải phân công cho hợp lý giữa công tác chính quyền và công tác hợp tác xã.
Dựa vào nguyên tắc trên việc phân công có thể tiến hành như sau:
a) Xã có 5 cán bộ chuyên trách, nếu trong đó có 4 cán bộ chính quyền thì có thể phân công:
- Chủ tịch phụ trách chung, phụ trách khối kinh tế, tài chính và có thể làm trưởng một số ban thuộc khối kinh tế, tài chính.
- Một phó Chủ tịch và một ủy viên mỗi người phụ trách một khối công tác (khối văn hóa xã hội hoặc khối nội chính quân sự) và có thể làm trưởng một số ban trong khối mình phụ trách.
- Một thư ký văn phòng phụ trách công tác văn phòng, công tác thống kê, công tác hộ tịch và kế toán ngân sách xã. Nếu là ủy viên thư ký kiêm văn phòng thì có thể được phân công thêm một số công tác của các khối tùy theo khả năng.
b) Xã có 5 hoặc 4 cán bộ chuyên trách, nếu trong đó có 3 cán bộ chính quyền thì có thể phân công:
- Chủ tịch vẫn phụ trách khối kinh tế tài chính và thêm một phần việc của khối văn xã hoặc nội chính.
- Phó chủ tịch (hoặc ủy viên) phụ trách công tác còn lại của 2 khối văn hóa và nội chính.
- Thư ký văn phòng như trên.
c) Xã có 4 hoặc 3 cán bộ chuyên trách, nếu trong đó có 2 cán bộ chính quyền thì có thể phân công:
- Bí thư kiêm Chủ tịch phụ trách khối kinh tế, tài chính và thêm công việc của một khối khác
- Phó Chủ tịch (hoặc ủy viên) phụ trách công việc còn lại của 2 khối.
- Thư ký văn phòng như trên.
3. Số ủy viên và cán bộ không chuyên trách ở xã:
Sổ ủy viên không chuyên trách ở xã được phân công phụ trách một số thôn, xóm, hợp tác xã. Số ủy viên có điều kiện và khả năng có thể tham gia vào ban quản trị hợp tác xã, hoặc làm trưởng một số ban chuyên môn hay phụ trách một công tác của các khối như: thủ quỹ, thủy lợi, chăn nuôi, lâm nghiệp…
Ngoài ra các ủy viên và cán bộ xã phải tham gia các công tác đột xuất của xã và dự các cuộc họp hoặc các lớp huấn luyện do cấp trên triệu tập.
4. Bồi dưỡng và quản lý cán bộ xã:
Cần coi trọng việc lựa chọn và bố trí xã cho hợp với trách nhiệm và khả năng của từng người, nhất là số cán bộ chuyên trách ở xã; nhưng tránh xáo trộn những trường hợp không cần thiết. Việc điều chỉnh cán bộ chính quyền phải theo đúng luật lệ.
Ủy ban hành chính tỉnh, huyện phải có kế hoạch quản lý chặt chẽ việc điều động cán bộ chuyên trách và cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở xã.
Đặc biệt coi trọng việc bồi dưỡng, giúp đỡ thường xuyên cho cán bộ chuyên trách ở xã. Trường Hành chính của các tỉnh phải có kế hoạch bồi dưỡng kịp thời cho số ủy viên chuyên trách, đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng cho các cán bộ khác.
III. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN CHÚ Ý TRONG LÚC THI HÀNH
Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh căn cứ vào hoàn cảnh địa phương để vạch kế hoạch thi hành cho sát. Bộ tôi lưu ý các địa phương một số điểm sau đây:
1. Ủy ban hành chính tỉnh, huyện cần tổ chức cho các ngành, các cấp nghiên cứu kỹ các thông tư quy định và giải quyết tư tưởng thật chu đáo để cán bộ nhất trí về mục đích, ý nghĩa và phương hướng cải tiến tổ chức, lề lối làm việc và chế độ đãi ngộ cán bộ xã ở Trung ương.
Ở xã cần tổ chức nghiên cứu cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính và các ngành, đồng thời phổ biến cho các ban quản trị hợp tác xã và nhân dân trước lúc thi hành.
2. Ủy ban hành chính tỉnh, huyện cần có kế hoạch cải tiến, lề lối làm việc của cấp mình và thông tri cho các xã.
Ủy ban hành chính xã cần có đề án dự kiến sắp xếp tổ chức, bố trí cán bộ, và lề lối làm việc mới của xã để báo cáo lên Ủy ban hành chính huyện quyết định.
3. Quyền hạn xét duyệt thành lập các ban chuyên môn, bổ sung ủy viên Ủy ban xã, quy định số lượng cán bộ chuyên trách của mỗi xã do Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh quyết định và báo cáo cho Bộ Nội vụ biết. Các tỉnh thuộc khi tự trị Việt Bắc báo cáo cho Ủy ban hành chính khu và Bộ Nội vụ biết.
Quyền hạn xét duyệt danh sách cán bộ chuyên trách, cán bộ trưởng phó ban và lề lối làm việc ở xã do Ủy ban hành chính huyện quyết định và báo cáo cho Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh biết.
4. Trong khi thi hành cần nắm vững phương châm tích cực và vững chắc tiến dần từng đợt theo khả năng và hoàn cảnh của địa phương. Ủy ban hành chính tỉnh, huyện cần chọn một số xã các loại (Hợp tác xã quy mô thôn, hợp tác xã quy mô toàn xã, miền núi, miền biển, thị trấn) làm thí điểm trước để rút kinh nghiệm lãnh đạo chung.
5. Kế hoạch thi hành cần được kết hợp chặt chẽ với Ban Tổ chức và Ban Công tác nông thôn, dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy Đảng, đồng thời phải kết hợp với công tác trọng tâm và công tác trước mắt của địa phương.
6. Việc kiểm tra theo dõi phải liên tục, báo cáo thường xuyên kịp thời. Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh báo cáo cho Bộ tôi biết kế hoạch tiến hành, kếtquả các xã thí điểm và kết quả các đợt sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm.
Công tác cải tiến tổ chức, sửa đổi lề lối làm việc lần này có tầm quan trọng đặc biệt đối với xã. Việc tiến hành tuy có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có nhiều khó khăn nhất là khó khăn về tư tưởng địa vị, suy bì đãi ngộ, bảo thủ, bản vị và tập quán lề lối làm việc cũ từ trước đến nay.
Bộ tôi mong Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh chú ý tăng cường sự lãnh đạo và tăng cường cán bộ chuyên trách để bảo đảm việc thi hành có kết quả. Trong lúc tiến hành nếu gặp trở ngại gì, các địa phương trao đổi với Bộ tôi để góp thêm ý kiến.
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ |
- 1 Thông tư 06-NV-1969 hướng dẫn về nguyên tắc phân công và lề lối làm việc của Ủy ban hành chính huyện, xã do Bộ Nội vụ ban hành
- 2 Thông tư 30-NV-1964 bổ sung về cải tiến tổ chức, lề lối làm việc ở cấp xã và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã do Bộ Nội Vụ ban hành
- 3 Thông tư 51-TTg năm 1962 về việc cải tiến tổ chức lề lối làm việc ở cấp xã và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã do Phủ thủ tướng ban hành
- 1 Thông tư 06-NV-1969 hướng dẫn về nguyên tắc phân công và lề lối làm việc của Ủy ban hành chính huyện, xã do Bộ Nội vụ ban hành
- 2 Thông tư 30-NV-1964 bổ sung về cải tiến tổ chức, lề lối làm việc ở cấp xã và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã do Bộ Nội Vụ ban hành
- 3 Thông tư 51-TTg năm 1962 về việc cải tiến tổ chức lề lối làm việc ở cấp xã và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã do Phủ thủ tướng ban hành