- 1 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007
- 2 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007
- 3 Luật bảo hiểm y tế 2008
- 4 Thông tư liên tịch 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT hướng dẫn chế độ tài chính đối với học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú và các trường dự bị đại học dân tộc do Bộ Tài chính - Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 5 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009
- 6 Thông tư 24/2010/TT-BGDĐT ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc bán trú do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 7 Luật giáo dục đại học 2012
- 8 Nghị định 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội
- 9 Nghị định 20/2014/NĐ-CP về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ
- 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
- 11 Luật Xây dựng 2014
- 12 Luật Bảo hiểm xã hội 2014
- 13 Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014
- 14 Nghị quyết 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông do Quốc hội ban hành
- 15 Luật ngân sách nhà nước 2015
- 16 Nghị định 61/2015/NĐ-CP Quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm
- 17 Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015
- 18 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
- 19 Thông tư 01/2016/TT-BGDĐT Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
- 20 Luật trẻ em 2016
- 21 Quyết định 732/QĐ-TTg năm 2016 phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 22 Nghị định 36/2016/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế
- 23 Nghị định 116/2016/NĐ-CP Quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn
- 24 Luật Đầu tư 2020
- 25 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2017
- 26 Luật Quy hoạch 2017
- 27 Nghị định 56/2017/NĐ-CP hướng dẫn Luật trẻ em
- 28 Nghị định 69/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo
- 29 Chỉ thị 14-CT/TW năm 2017 về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng do Ban Chấp hành trung ương ban hành
- 30 Luật Đầu tư công 2019
- 31 Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 32 Nghị quyết 20/NQ-TW năm 2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 33 Luật giáo dục 2019
- 34 Nghị quyết 51/2017/QH14 về điều chỉnh lộ trình thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới theo Nghị quyết 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông do Quốc hội ban hành
- 35 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020
- 36 Thông tư 33/2017/TT-BGDĐT quy định về tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa sách giáo khoa; tiêu chuẩn tổ chức, cá nhân biên soạn sách giáo khoa; tổ chức và hoạt động của Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 37 Nghị quyết 28-NQ/TW năm 2018 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội do Ban Chấp hàng Trung ương ban hành
- 38 Quyết định 960/QĐ-TTg năm 2018 về danh sách đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 39 Nghị định 74/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm
- 40 Chỉ thị 18/CT-TTg năm 2019 về tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài trong tình hình mới cho chi đầu tư phát triển, không vay cho chi thường xuyên do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 41 Luật Doanh nghiệp 2020
- 42 Luật Bảo vệ môi trường 2020
- 43 Nghị định 99/2019/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học sửa đổi
- 44 Chỉ thị 16/CT-TTg năm 2020 về thực hiện biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 45 Công văn 2858/VPCP-NC năm 2020 về thông tin báo chí phản ánh việc nhiều đối tượng thu gom, mua bán sổ bảo hiểm xã hội nhằm trục lợi do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 46 Chỉ thị 23/CT-TTg năm 2020 về tăng cường giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 47 Nghị quyết 121/2020/QH14 năm 2020 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em do Quốc hội ban hành
- 48 Nghị quyết 122/2020/QH14 về kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV
- 49 Quyết định 1292/QĐ-TTg năm 2020 về phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 50 Quyết định 1472/QĐ-TTg năm 2020 triển khai Nghị quyết 121/2020/QH14 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 51 Nghị quyết 143/NQ-CP năm 2020 về phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Chính phủ ban hành
- 52 Pháp lệnh ưu đãi người có công với Cách mạng 2020
- 53 Quyết định 23/QĐ-TTg năm 2021 về phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021-2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 54 Quyết định 209/QĐ-TTg năm 2021 về phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Chính phủ ban hành
- 55 Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội
- 56 Nghị định 108/2021/NĐ-CP về điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng
- 57 Nghị quyết 41/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2021
- 58 Thông tư 08/2021/TT-BGDĐT về Quy chế đào tạo trình độ đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 59 Thông tư 07/2021/TT-BYT hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Y tế ban hành
- 60 Nghị định 60/2021/NĐ-CP về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
- 61 Thông tư 02/2021/TT-BLĐTBXH hướng dẫn Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
- 62 Nghị quyết 63/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022 do Chính phủ ban hành
- 63 Nghị quyết 68/NQ-CP năm 2021 về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 64 Quyết định 23/2021/QĐ-TTg quy định về thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 65 Nghị quyết 29/2021/QH15 về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 do Quốc hội ban hành
- 66 Thông tư 11/2021/TT-BYT hướng dẫn đăng ký lưu hành vắc xin phòng Covid-19 trong trường hợp cấp bách do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 67 Công điện 1105/CĐ-TTg năm 2021 về thu dung, thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người "lang thang, cơ nhỡ" do Thủ tướng Chính phủ điện
- 68 Quyết định 1446/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Chương trình "Đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư" do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 69 Luật sửa đổi Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự 2022
- 70 Chỉ thị 24/CT-TTg năm 2021 về đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức dạy học an toàn, bảo đảm chương trình và mục tiêu chất lượng giáo dục, đào tạo ứng phó với đại dịch COVID-19 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 71 Thông tư 16/2021/TT-BYT quy định về giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 72 Nghị quyết 128/NQ-CP năm 2021 quy định tạm thời "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19" do Chính phủ ban hành
- 73 Nghị quyết 126/NQ-CP năm 2021 sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 68/NQ-CP về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 74 Quyết định 33/2021/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 23/2021/QĐ-TTg quy định về thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 75 Nghị định 98/2021/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế
- 76 Quyết định 1895/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Chương trình “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng giai đoạn 2021-2030” do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 77 Quyết định 512A/QĐ-TANDTC năm 2021 về Kế hoạch triển khai thi hành Nghị quyết 33/2021/QH15 về tổ chức phiên tòa trực tuyến do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- 78 Nghị quyết 41/2021/QH15 về hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV
- 79 Quyết định 2048/QĐ-TTg năm 2021 về giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách Nhà nước năm 2022 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 80 Quyết định 2109/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Đề án "Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021-2025" do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 81 Nghị định 114/2021/NĐ-CP về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài
- 82 Quyết định 1405/QĐ-LĐTBXH năm 2021 về Chương trình hỗ trợ phục hồi và phát triển thị trường lao động do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
- 83 Quyết định 1962/QĐ-TTg về thành lập các Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 tại một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 84 Nghị quyết 168/NQ-CP năm 2021 về cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 85 Quyết định 2239/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 86 Nghị quyết 12/2021/UBTVQH15 về cho phép thực hiện cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
- 87 Thông tư 37/2021/TT-BGDĐT về Danh mục thiết bị dạy học tối thiểu cấp Tiểu học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 88 Thông tư 38/2021/TT-BGDĐT về Danh mục thiết bị dạy học tối thiểu cấp Trung học cơ sở do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 89 Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2022 do Chính phủ ban hành
- 90 Quyết định 90/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 91 Công văn 70/LĐTBXH-TE năm 2022 về rà soát, kiểm tra, thanh tra việc chăm sóc, nuôi dưỡng, hỗ trợ trẻ em của các cơ sở trợ giúp xã hội, các quỹ từ thiện do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
- 92 Công văn 572/VPCP-KTTH năm 2022 về tình hình, kết quả của các Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 93 Nghị quyết 11/NQ-CP năm 2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình do Chính phủ ban hành
- 94 Nghị quyết 14/NQ-CP năm 2022 về mua vắc xin phòng COVID-19 của Pfizer cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi do Chính phủ ban hành
- 95 Quyết định 130/QĐ-TTg năm 2022 về Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản hướng dẫn các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ nhất do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 96 Nghị quyết 09-NQ/TW năm 2022 về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 97 Thông tư 01/2022/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thu thập, lưu trữ, tổng hợp thông tin thị trường lao động do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành
- 98 Quyết định 219/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Quy hoạch tỉnh Bắc Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 99 Thông tư 02/2022/TT-BYT quy định về giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 100 Thông tư 02/2022/TT-BGDĐT quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo, đình chỉ hoạt động của ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 101 Quyết định 585/QĐ-BGDĐT năm 2022 về Kế hoạch triển khai Quyết định 1895/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình "Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng giai đoạn 2021-2030" của ngành Giáo dục do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 102 Quyết định 287/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 103 Công văn 623/BGDĐT-TTr năm 2022 về tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 104 Công văn 624/BGDĐT-TTr năm 2022 về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ trong cơ sở giáo dục đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 105 Quyết định 311/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Chương trình "Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng trên không gian mạng giai đoạn 2022-2030" do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 106 Công điện 252/CĐ-TTg năm 2022 về đôn đốc triển khai quyết liệt, hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ điện
- 107 Nghị quyết 38/NQ-CP năm 2022 về Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 108 Quyết định 08/2022/QĐ-TTg quy định về thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 109 Công văn 1684/VPCP-KTTH về đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 110 Thông tư 05/2022/TT-BGDĐT sửa đổi Quy định tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa sách giáo khoa; tiêu chuẩn tổ chức, cá nhân biên soạn sách giáo khoa; tổ chức và hoạt động của Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa kèm theo Thông tư 33/2017/TT-BGDĐT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 111 Công điện 290/CĐ-TTg năm 2022 về đôn đốc các nhiệm vụ cấp bách triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ điện
- 112 Quyết định 09/2022/QĐ-TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn để mua máy tính, thiết bị phục vụ học tập trực tuyến do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 113 Nghị quyết 55/NQ-CP năm 2022 về vắc xin phòng COVID-19 cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi do Chính phủ ban hành
- 114 Thông báo 106/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về tình hình kinh tế - xã hội tháng 3 và 3 tháng năm 2022, tình hình triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; tình hình và giải pháp đẩy nhanh tiến độ phân bổ, giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022; việc triển khai công trình giao thông quan trọng quốc gia do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 115 Quyết định 492/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 116 Quyết định 11/2022/QĐ-TTg về tín dụng đối với cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 117 Kế hoạch số 185/KH-BGDĐT năm 2022 về Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 1 Nghị quyết 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội do Quốc hội ban hành
- 2 Nghị quyết 46/2022/QH15 về kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV
- 3 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007
- 4 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007
- 5 Luật bảo hiểm y tế 2008
- 6 Thông tư liên tịch 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT hướng dẫn chế độ tài chính đối với học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú và các trường dự bị đại học dân tộc do Bộ Tài chính - Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 7 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009
- 8 Thông tư 24/2010/TT-BGDĐT ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc bán trú do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 9 Luật giáo dục đại học 2012
- 10 Nghị định 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội
- 11 Nghị định 20/2014/NĐ-CP về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ
- 12 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
- 13 Luật Xây dựng 2014
- 14 Luật Bảo hiểm xã hội 2014
- 15 Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014
- 16 Nghị quyết 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông do Quốc hội ban hành
- 17 Luật ngân sách nhà nước 2015
- 18 Nghị định 61/2015/NĐ-CP Quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm
- 19 Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015
- 20 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
- 21 Thông tư 01/2016/TT-BGDĐT Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
- 22 Luật trẻ em 2016
- 23 Quyết định 732/QĐ-TTg năm 2016 phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 24 Nghị định 36/2016/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế
- 25 Nghị định 116/2016/NĐ-CP Quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn
- 26 Luật Đầu tư 2020
- 27 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2017
- 28 Luật Quy hoạch 2017
- 29 Nghị định 56/2017/NĐ-CP hướng dẫn Luật trẻ em
- 30 Nghị định 69/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo
- 31 Chỉ thị 14-CT/TW năm 2017 về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng do Ban Chấp hành trung ương ban hành
- 32 Luật Đầu tư công 2019
- 33 Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 34 Nghị quyết 20/NQ-TW năm 2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 35 Luật giáo dục 2019
- 36 Nghị quyết 51/2017/QH14 về điều chỉnh lộ trình thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới theo Nghị quyết 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông do Quốc hội ban hành
- 37 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020
- 38 Thông tư 33/2017/TT-BGDĐT quy định về tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa sách giáo khoa; tiêu chuẩn tổ chức, cá nhân biên soạn sách giáo khoa; tổ chức và hoạt động của Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 39 Nghị quyết 28-NQ/TW năm 2018 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội do Ban Chấp hàng Trung ương ban hành
- 40 Quyết định 960/QĐ-TTg năm 2018 về danh sách đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 41 Nghị định 74/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm
- 42 Chỉ thị 18/CT-TTg năm 2019 về tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài trong tình hình mới cho chi đầu tư phát triển, không vay cho chi thường xuyên do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 43 Luật Doanh nghiệp 2020
- 44 Luật Bảo vệ môi trường 2020
- 45 Nghị định 99/2019/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học sửa đổi
- 46 Chỉ thị 16/CT-TTg năm 2020 về thực hiện biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 47 Công văn 2858/VPCP-NC năm 2020 về thông tin báo chí phản ánh việc nhiều đối tượng thu gom, mua bán sổ bảo hiểm xã hội nhằm trục lợi do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 48 Chỉ thị 23/CT-TTg năm 2020 về tăng cường giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 49 Nghị quyết 121/2020/QH14 năm 2020 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em do Quốc hội ban hành
- 50 Nghị quyết 122/2020/QH14 về kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV
- 51 Quyết định 1292/QĐ-TTg năm 2020 về phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 52 Quyết định 1472/QĐ-TTg năm 2020 triển khai Nghị quyết 121/2020/QH14 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 53 Nghị quyết 143/NQ-CP năm 2020 về phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Chính phủ ban hành
- 54 Pháp lệnh ưu đãi người có công với Cách mạng 2020
- 55 Quyết định 23/QĐ-TTg năm 2021 về phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021-2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 56 Quyết định 209/QĐ-TTg năm 2021 về phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Chính phủ ban hành
- 57 Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội
- 58 Nghị định 108/2021/NĐ-CP về điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng
- 59 Nghị quyết 41/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2021
- 60 Thông tư 08/2021/TT-BGDĐT về Quy chế đào tạo trình độ đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 61 Thông tư 07/2021/TT-BYT hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Y tế ban hành
- 62 Nghị định 60/2021/NĐ-CP về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
- 63 Thông tư 02/2021/TT-BLĐTBXH hướng dẫn Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
- 64 Nghị quyết 63/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022 do Chính phủ ban hành
- 65 Nghị quyết 68/NQ-CP năm 2021 về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 66 Quyết định 23/2021/QĐ-TTg quy định về thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 67 Nghị quyết 29/2021/QH15 về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 do Quốc hội ban hành
- 68 Thông tư 11/2021/TT-BYT hướng dẫn đăng ký lưu hành vắc xin phòng Covid-19 trong trường hợp cấp bách do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 69 Công điện 1105/CĐ-TTg năm 2021 về thu dung, thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người "lang thang, cơ nhỡ" do Thủ tướng Chính phủ điện
- 70 Quyết định 1446/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Chương trình "Đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư" do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 71 Luật sửa đổi Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự 2022
- 72 Chỉ thị 24/CT-TTg năm 2021 về đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức dạy học an toàn, bảo đảm chương trình và mục tiêu chất lượng giáo dục, đào tạo ứng phó với đại dịch COVID-19 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 73 Thông tư 16/2021/TT-BYT quy định về giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 74 Nghị quyết 128/NQ-CP năm 2021 quy định tạm thời "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19" do Chính phủ ban hành
- 75 Nghị quyết 126/NQ-CP năm 2021 sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 68/NQ-CP về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 76 Quyết định 33/2021/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 23/2021/QĐ-TTg quy định về thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 77 Nghị định 98/2021/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế
- 78 Quyết định 1895/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Chương trình “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng giai đoạn 2021-2030” do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 79 Quyết định 512A/QĐ-TANDTC năm 2021 về Kế hoạch triển khai thi hành Nghị quyết 33/2021/QH15 về tổ chức phiên tòa trực tuyến do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- 80 Nghị quyết 41/2021/QH15 về hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV
- 81 Quyết định 2048/QĐ-TTg năm 2021 về giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách Nhà nước năm 2022 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 82 Quyết định 2109/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Đề án "Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021-2025" do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 83 Nghị định 114/2021/NĐ-CP về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài
- 84 Quyết định 1405/QĐ-LĐTBXH năm 2021 về Chương trình hỗ trợ phục hồi và phát triển thị trường lao động do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
- 85 Quyết định 1962/QĐ-TTg về thành lập các Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 tại một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 86 Nghị quyết 168/NQ-CP năm 2021 về cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 87 Quyết định 2239/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 88 Nghị quyết 12/2021/UBTVQH15 về cho phép thực hiện cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
- 89 Thông tư 37/2021/TT-BGDĐT về Danh mục thiết bị dạy học tối thiểu cấp Tiểu học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 90 Thông tư 38/2021/TT-BGDĐT về Danh mục thiết bị dạy học tối thiểu cấp Trung học cơ sở do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 91 Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2022 do Chính phủ ban hành
- 92 Quyết định 90/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 93 Công văn 70/LĐTBXH-TE năm 2022 về rà soát, kiểm tra, thanh tra việc chăm sóc, nuôi dưỡng, hỗ trợ trẻ em của các cơ sở trợ giúp xã hội, các quỹ từ thiện do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
- 94 Công văn 572/VPCP-KTTH năm 2022 về tình hình, kết quả của các Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 95 Nghị quyết 11/NQ-CP năm 2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình do Chính phủ ban hành
- 96 Nghị quyết 14/NQ-CP năm 2022 về mua vắc xin phòng COVID-19 của Pfizer cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi do Chính phủ ban hành
- 97 Quyết định 130/QĐ-TTg năm 2022 về Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản hướng dẫn các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ nhất do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 98 Nghị quyết 09-NQ/TW năm 2022 về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 99 Thông tư 01/2022/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thu thập, lưu trữ, tổng hợp thông tin thị trường lao động do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành
- 100 Quyết định 219/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Quy hoạch tỉnh Bắc Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 101 Thông tư 02/2022/TT-BYT quy định về giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 102 Thông tư 02/2022/TT-BGDĐT quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo, đình chỉ hoạt động của ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 103 Quyết định 585/QĐ-BGDĐT năm 2022 về Kế hoạch triển khai Quyết định 1895/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình "Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng giai đoạn 2021-2030" của ngành Giáo dục do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 104 Quyết định 287/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 105 Công văn 623/BGDĐT-TTr năm 2022 về tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 106 Công văn 624/BGDĐT-TTr năm 2022 về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ trong cơ sở giáo dục đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 107 Quyết định 311/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Chương trình "Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng trên không gian mạng giai đoạn 2022-2030" do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 108 Công điện 252/CĐ-TTg năm 2022 về đôn đốc triển khai quyết liệt, hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ điện
- 109 Nghị quyết 38/NQ-CP năm 2022 về Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 110 Quyết định 08/2022/QĐ-TTg quy định về thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 111 Công văn 1684/VPCP-KTTH về đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 112 Thông tư 05/2022/TT-BGDĐT sửa đổi Quy định tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa sách giáo khoa; tiêu chuẩn tổ chức, cá nhân biên soạn sách giáo khoa; tổ chức và hoạt động của Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa kèm theo Thông tư 33/2017/TT-BGDĐT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 113 Công điện 290/CĐ-TTg năm 2022 về đôn đốc các nhiệm vụ cấp bách triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ điện
- 114 Quyết định 09/2022/QĐ-TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn để mua máy tính, thiết bị phục vụ học tập trực tuyến do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 115 Nghị quyết 55/NQ-CP năm 2022 về vắc xin phòng COVID-19 cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi do Chính phủ ban hành
- 116 Thông báo 106/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về tình hình kinh tế - xã hội tháng 3 và 3 tháng năm 2022, tình hình triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; tình hình và giải pháp đẩy nhanh tiến độ phân bổ, giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022; việc triển khai công trình giao thông quan trọng quốc gia do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 117 Quyết định 492/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 118 Quyết định 11/2022/QĐ-TTg về tín dụng đối với cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
CHÍNH PHỦ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 170/BC-CP | Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2022 |
Kính gửi: Quốc hội.
Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết số 41/2021/QH15 ngày 13/11/2021 về hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ 2 trong đó yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ tập trung thực hiện những giải pháp cam kết, khắc phục những tồn tại, hạn chế, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý nhà nước 04 lĩnh vực được chất vấn bao gồm: y tế, lao động, thương binh và xã hội, giáo dục và đào tạo, kế hoạch và đầu tư. Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 41/2021/QH15, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo tại công văn số 9211/VPCP-QHĐP ngày 17/12/2021 trong đó giao các đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách lĩnh vực trực tiếp chỉ đạo, triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện các nội dung, công việc, nhiệm vụ thuộc từng lĩnh vực nêu trong Nghị quyết. Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về việc tổ chức triển khai và kết quả thực hiện Nghị quyết.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan đã nghiêm túc quán triệt, chỉ đạo, điều hành và tổ chức triển khai các nhiệm vụ được giao; tập trung thực hiện những giải pháp đã đề ra, từng bước khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua, tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác quản lý nhà nước. Cụ thể, Bộ Y tế đã ban hành Công văn số 10430/BYT-VPB1, ngày 08/12/2021 yêu cầu Thủ trưởng các Đơn vị trực tiếp chỉ đạo xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các nội dung được giao tại Nghị quyết số 41/2021/QH15; Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số 04/KH-BGDĐT ngày 07/01/2022 triển khai thực hiện Nghị quyết trong đó phân công cụ thể lãnh đạo Bộ để phụ trách chỉ đạo việc thực hiện, giao đơn vị chủ trì thực hiện và thời hạn hoàn thành; Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Kế hoạch triển khai tại Quyết định số 139/QĐ-BKHĐT ngày 27/01/2022, trong đó đã cụ thể hóa các nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao tại các Nghị quyết của Quốc hội thành các nhiệm vụ cụ thể và xác định rõ lộ trình, mốc thời gian thực hiện các nhiệm vụ.
Theo từng lĩnh vực, các Bộ đã có Báo cáo chi tiết gửi tới Quốc hội và các vị Đại biểu Quốc hội. Chính phủ xin báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện Nghị quyết số 41/2021/QH15 của Quốc hội như sau:
Tổng số nhiệm vụ thuộc lĩnh vực y tế: 16 nhiệm vụ, trong đó:
1. Số nhiệm vụ có quy định thời hạn hoàn thành cụ thể: 04 nhiệm vụ
- Hoàn thành đúng và trước thời hạn quy định: 02 nhiệm vụ;
- Hoàn thành nhưng chậm so với thời hạn quy định: 02 nhiệm vụ
2. Số nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành: 12 nhiệm vụ.
- Đã hoàn thành: 03 nhiệm vụ
- Đang thực hiện: 09 nhiệm vụ
II. Kết quả thực hiện và phương hướng thời gian tới
1. Đối với nhiệm vụ: Tổng kết việc thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19 đã triển khai thực hiện trong các đợt dịch vừa qua để xây dựng kế hoạch tổng thể phòng, chống dịch trong thời gian tới. Tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ quy định tạm thời về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19:
Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế tổng kết việc thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19 để tham mưu cho Chính phủ ban hành Kế hoạch tổng thể phòng, chống dịch COVID-19. Ban Chỉ đạo Quốc gia tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả bước đầu công tác phòng, chống dịch COVID-19 (đợt dịch lần thứ 4) với các địa phương để đánh giá, rút kinh nghiệm, triển khai công tác phòng, chống dịch các cấp vào ngày 17/10/2021. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 17/3/2022 về Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 (2022-2023).
Hiện nay Bộ Y tế đang xây dựng để trình Chính phủ Báo cáo tổng kết công tác phòng, chống dịch COVID-19 sau 2 năm thực hiện, trên cơ sở đó đưa ra các bài học, kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp phù hợp. Trên cơ sở diễn biến tình hình dịch bệnh, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn địa phương triển khai các biện pháp phòng, chống dịch, quản lý người về từ vùng dịch nhằm thực hiện hiệu quả thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, đồng thời, ban hành văn bản đề nghị các địa phương chủ động rà soát, giám sát, xét nghiệm các trường hợp có nguy cơ đi/đến/về từ địa bàn có dịch. Nhờ các giải pháp về chuyên môn y tế được triển khai đồng bộ, kịp thời đã góp phần quan trọng vào những kết quả tích cực trong kiểm soát tình hình dịch COVID-19, từng bước khôi phục thị trường lao động, xuất khẩu, thu hút đầu tư; bảo đảm an ninh, trật tự xã hội và an sinh xã hội cho người dân.
2. Đối với nhiệm vụ: Ban hành Kế hoạch tổng thể phòng, chống dịch COVID-19 năm 2022 - 2023:
Đây là nhiệm vụ đã hoàn thành nhưng chậm so với thời hạn quy định tại Nghị quyết của Quốc hội (trước ngày 01/01/2022). Nguyên nhân chậm là do: (i) sự thay đổi hình thức ban hành văn bản: ngày 15/12/2021, Ban cán sự đảng Bộ Y tế đã trình và được Bộ Chính trị nhất trí về Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 (2022 - 2023), đồng thời yêu cầu ban hành Chương trình này dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, do các nội dung của Chương trình không phù hợp để ban hành theo hình thức này, nên Ban cán sự đảng Bộ Y tế tiếp tục trình xin ý kiến đồng chí Thường trực Ban Bí thư và đã được đồng ý để Ban cán sự đảng Bộ Y tế trình Chính phủ ban hành bằng hình thức Nghị quyết của Chính phủ; (ii) Diễn biến dịch bệnh có thay đổi so với thời điểm Bộ Y tế xây dựng dự thảo báo cáo Bộ Chính trị (tháng 12/2021), vì vậy cần thêm thời gian để rà soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.
Ngày 17/3/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 38/NQ-CP về Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 với các nhiệm vụ, giải pháp về y tế cụ thể và thực hiện trong thời gian 2 năm 2022 - 2023; trường hợp dịch bệnh kết thúc sớm hơn hoặc kéo dài sang năm 2024, Chính phủ sẽ xem xét việc tiếp tục thực hiện Chương trình này hoặc sửa đổi, bổ sung kịp thời, phù hợp với tình hình dịch bệnh. Nghị quyết số 38/NQ-CP ban hành sẽ tiếp tục thực hiện bảo đảm kiểm soát dịch hiệu quả, kiểm soát tốc độ lây lan trong cộng đồng, bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng của người dân, hạn chế đến mức thấp nhất các ca bệnh nặng, tử vong do dịch COVID-19 đồng thời khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội.
3. Đối với nhiệm vụ: Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực cho phòng, chống dịch; khắc phục những vấn đề chưa thống nhất, thiếu nhất quán trong chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện; đẩy mạnh việc xã hội hóa, kết hợp công - tư trong công tác phòng, chống dịch, trong đó có cơ chế huy động hiệu quả các tổ chức y tế tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ y tế trong phòng, chống dịch (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19; ban hành Nghị định chi tiết thi hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; ban hành Nghị quyết số 168/NQ-CP ngày 31/12/2021 về một số cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19 kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc trong việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực cho phòng, chống dịch.
- Để kịp thời khắc phục những vấn đề chưa thống nhất, thiếu nhất quán trong chỉ đạo, điều hành, ngày 04/11/2021, Bộ Y tế đã thay mặt Chính phủ có văn bản số 1760/BC-BYT báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội các vấn đề vướng mắc, bất cập về pháp lý trong công tác phòng chống dịch COVID-19 và đề xuất sửa đổi 03 Luật, 01 Nghị định và xây dựng mới 01 Nghị quyết. Đối với đề xuất sửa đổi Nghị định số 36/2016/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2021/NĐ-CP ngày 08/11/2021 về quản lý trang thiết bị y tế và Nghị quyết số 168/NQ-CP về một số cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19 kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc. Đối với các đề xuất sửa đổi các Luật, các cơ quan liên quan của Chính phủ đang tiếp tục phối hợp với các Ủy ban của Quốc hội đẩy nhanh tiến độ sửa đổi để kịp thời điều chỉnh nội dung chưa thống nhất, thiếu nhất quán, bất cập trong công tác chỉ đạo điều hành phù hợp với các quy định và thực tiễn.
- Về việc đẩy mạnh việc xã hội hóa, kết hợp công - tư trong công tác phòng, chống dịch, trong đó có cơ chế huy động hiệu quả các tổ chức y tế tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ y tế trong phòng, chống dịch, Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19, trong đó có quy định việc thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh COVID-19 tại cơ sở y tế tư nhân do chính quyền địa phương cấp tỉnh giao nhiệm vụ tiếp nhận, quản lý, chăm sóc sức khỏe, điều trị COVID-19 được ngân sách nhà nước chi trả chi phí điều trị bệnh COVID-19 theo mức thanh toán của bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh hạng cao nhất đóng trên địa bàn.
4. Đối với nhiệm vụ: Rà soát, đề xuất việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về áp dụng các biện pháp đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh, phòng, chống bệnh truyền nhiễm, khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm y tế, quản lý và sử dụng thuốc chữa bệnh, quản lý và mua sắm trang thiết bị y tế (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Trong Chương trình công tác của Chính phủ năm 2022 đã có 14 Đề án để tập trung hoàn thiện hệ thống văn bản trong lĩnh vực khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế, quản lý dược, trang thiết bị y tế. Bộ Y tế đã ban hành theo thẩm quyền Thông tư số 02/2022/TT-BYT ngày 18/02/2022 quy định giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 (thay thế Thông tư số 16/2021/TT-BYT ngày 08/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2).
- Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Y tế tập trung hoàn thiện bộ Hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Phòng bệnh trên cơ sở tổng kết 15 năm thi hành Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm (trong đó tập trung rà soát, tổng hợp các khó khăn, bất cập trong công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm đặc biệt là phòng chống dịch COVID-19 có liên quan đến quy định của pháp luật để xem xét, đề xuất, sửa đổi Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong dự án Luật Phòng bệnh), các bài học kinh nghiệm và cơ sở triển khai thực tiễn công tác phòng, chống dịch COVID-19 thời gian qua, dự kiến trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét vào tháng 12/2022.
5. Đối với nhiệm vụ: Nghiên cứu xem xét, đưa một số loại trang thiết bị, vật tư y tế (bao gồm kit xét nghiệm COVID-19) vào danh mục quản lý giá, bình ổn giá; ban hành quy định về mức giá trần xét nghiệm COVID-19 đối với cơ sở y tế tư nhân (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2021/NĐ-CP ngày 08/11/2021 về quản lý trang thiết bị y tế. Nghị định thay đổi cơ bản vấn đề về quản lý trang thiết bị y tế, cụ thể: i) Công khai, minh bạch toàn bộ trong quá trình quản lý; ii) Chuyển từ phương thức quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm; iii) Phương thức quản lý phù hợp với quốc tế. Đặc biệt đối với vấn đề về quản lý giá trang thiết bị cũng như sinh phẩm chẩn đoán đã chính thức được đưa vào mặt hàng được quản lý giá. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành phối hợp tăng cường công tác quản lý nhà nước về trang thiết bị y tế trong công tác phòng, chống dịch COVID-19, trong đó yêu cầu sớm nghiên cứu, xem xét trình Chính phủ đưa mặt hàng trang thiết bị, vật tư y tế (bao gồm kit test xét nghiệm) vào diện bình ổn giá trong thời kỳ phòng, chống dịch COVID-19.
- Việc ban hành quy định về mức giá trần xét nghiệm COVID-19 đối với cơ sở y tế tư nhân, tại điểm 5 Điều 88 Luật Khám bệnh, chữa bệnh quy định: “cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân được quyền quyết định và phải niêm yết công khai giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh”. Tuy nhiên, để kiểm soát giá xét nghiệm COVID-19 với các cơ sở y tế tư nhân, Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản đề nghị Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo chức năng, nhiệm vụ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Trường hợp cần thiết báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về giá đối với các cơ sở y tế trên địa bàn, đặc biệt là việc tuân thủ các quy định về giá dịch vụ xét nghiệm COVID-19 của các cơ sở y tế tư nhân; yêu cầu các cơ sở y tế phải thực hiện việc xây dựng, quyết định mức giá và kê khai, công bố công khai giá dịch vụ xét nghiệm COVID-19 theo quy định của pháp luật về giá. Xử lý nghiêm các vi phạm nếu có, không để tình trạng lợi dụng dịch bệnh để tăng giá dịch vụ y tế nói chung và dịch vụ xét nghiệm COVID-19 của các cơ sở y tế trên địa bàn. Hiện nay, Bộ Tài chính đang chủ trì phối hợp với Bộ Y tế để ban hành quy định về mức giá trần xét nghiệm COVID-19 đối với cơ sở y tế tư nhân.
6. Đối với nhiệm vụ: Trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Khám bệnh, chữa bệnh và Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi): Đây là nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể.
- Về xây dựng Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi): Chính phủ đã có Tờ trình số 47/TTr-CP ngày 11/02/2022, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị bổ sung Dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng Luật năm 2022. Ngày 16/02/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp thẩm tra đề nghị xây dựng Dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi). Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế khẩn trương chỉnh lý, tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm tra của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để hoàn thiện hồ sơ dự án Luật để kịp thời trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV.
- Về xây dựng Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi): Hiện nay, Bộ Y tế đang khẩn trương phối hợp với các Bộ, ngành hoàn thiện Hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi) nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập và đáp ứng yêu cầu của công khám, chữa bệnh trong tình hình mới.
7. Đối với nhiệm vụ: Nghiên cứu, đề xuất nâng Pháp lệnh tình trạng khẩn cấp lên thành Luật, trong đó có nội dung tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Y tế tập trung hoàn thiện bộ Hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Phòng bệnh trên cơ sở tổng kết 15 năm thi hành Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm (trong đó tập trung rà soát, tổng hợp các khó khăn, bất cập trong công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm đặc biệt là phòng chống dịch COVID-19 có liên quan đến quy định của pháp luật để xem xét, đề xuất, sửa đổi Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong dự án Luật Phòng bệnh), các bài học kinh nghiệm và cơ sở triển khai thực tiễn công tác phòng, chống dịch COVID-19 thời gian qua, dự kiến trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào tháng 12/2022.
8. Đối với nhiệm vụ: Tăng độ bao phủ bảo hiểm y tế đối với nhóm đối tượng theo hộ gia đình; hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế tài chính; chính sách huy động nguồn lực, thúc đẩy xã hội hóa, kết hợp công - tư trong lĩnh vực y tế (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Để tăng độ bao phủ bảo hiểm y tế đối với nhóm đối tượng theo hộ gia đình, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Y tế chủ trì xây dựng và đang xem xét để ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ giao chỉ tiêu thực hiện bao phủ bảo hiểm y tế giai đoạn 2021 - 2025, để bảo đảm đến năm 2025 đạt tỷ lệ bao phủ 95% dân số như mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ Sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII.
- Hiện nay, Bộ Y tế đang tiếp thu ý kiến của các Thành viên Chính phủ để hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định về vay vốn, huy động vốn, liên doanh, liên kết, thuê tài sản, thuê đơn vị cung ứng dịch vụ đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập thuộc lĩnh vực y tế - dân số trước khi ban hành.
9. Đối với nhiệm vụ: Hoàn thành tỷ lệ tiêm chủng đủ liều vắc xin mũi 2 cho người trên 18 tuổi; bắt đầu tiêm mũi thứ 3 từ ngày 01/12/2021, ưu tiên sớm tiêm vắc xin cho người trên 50 tuổi (trừ đối tượng thuộc diện chống chỉ định tiêm vắc xin): Đây là nhiệm vụ đã hoàn thành, kết quả cụ thể như sau:
- Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế khẩn trương ban hành các văn bản về hướng dẫn tiêm vắc xin phòng COVID-19 liều cơ bản và liều nhắc lại và tăng cường miễn dịch phòng bệnh cho những người đã được tiêm chủng đủ liều cơ bản. Tính đến ngày 31/3/2022, cả nước đã triển khai tiêm chủng được hơn 206 triệu liều vắc xin cho người từ 12 tuổi trở lên; tỷ lệ tiêm mũi 1 cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt 100%, mũi 2 đạt 99,7%.
- Để tăng cường miễn dịch phòng bệnh COVID-19 cho những người đã được tiêm chủng đủ liều cơ bản, ngày 17/12/2021, Bộ Y tế đã ban hành hướng dẫn tiêm liều bổ sung, tiêm nhắc lại cho người từ 18 tuổi trở lên. Đến ngày 31/3/2021 cả nước đã triển khai tiêm được gần 15 triệu liều bổ sung (đạt 63% đối tượng có chỉ định tiêm mũi bổ sung) và được hơn 33 triệu liều nhắc lại (đạt 46% người từ 18 tuổi trở lên).
10. Đối với nhiệm vụ: Tích cực triển khai tiêm vắc xin cho người từ độ tuổi 12-17 tuổi để phục vụ các cháu đến trường (nhiệm vụ đã hoàn thành):
Ngay từ tháng 10/2021, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế có hướng dẫn triển khai tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho trẻ từ 12 đến 17 tuổi. Đến nay đã tiêm được hơn 17 triệu liều vắc xin cho nhóm tuổi này, tỷ lệ bao phủ mũi 1 là 99,6% và mũi 2 là 94,7%.
11. Đối với nhiệm vụ: Báo cáo cấp có thẩm quyền trước khi tiến hành triển khai tiêm vắc xin cho trẻ em từ độ tuổi 5 - 11 tuổi ngay sau khi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) có khuyến cáo (nhiệm vụ đã hoàn thành):
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 05/02/2022 về việc mua vắc xin phòng COVID-19 của Pfizer cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi. Ngày 14/4/2022 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 55/NQ-CP tiếp tục chỉ đạo Bộ Y tế về việc mua và tiêm vắc xin cho trẻ em từ 5 đến 12 tuổi.
Từ ngày 21/4/2022 nhiều địa phương trên cả nước đã đồng loạt tổ chức tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho trẻ em từ 5 đến 12 tuổi.
12. Đối với nhiệm vụ: Xem xét cấp phép sản xuất cho vắc xin, thuốc điều trị COVID-19 trong nước và đưa vào sử dụng, tiến tới tự chủ nguồn thuốc và vắc xin (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Y tế chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất Quốc hội, Chính phủ sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý phù hợp trong tình hình mới đồng thời rút ngắn tối đa các thủ tục hành chính. Các vắc xin phòng COVID-19 sản xuất trong nước đáp ứng quy định tại Thông tư số 11/2021/TT-BYT ngày 19/8/2021 sẽ được Bộ Y tế kịp thời xem xét cấp phép, đưa vào sử dụng để tiến tới tự chủ nguồn vắc xin.
- Đến nay, Bộ Y tế đã cấp giấy đăng ký lưu hành có điều kiện cho 3 thuốc điều trị COVID-19 chứa hoạt chất Molnupiravir và có 3 "ứng cử viên" vắc xin phòng COVID-19 là Nanocovax của Công ty cổ phần công nghệ sinh học dược Nanogen; Covivac do Viện Vaccine và sinh phẩm y tế Nha Trang (IVAC) nghiên cứu, vắc xin chuyển giao công nghệ ARCT-154. Cả ba ứng viên vắc xin COVID-19 của Việt Nam đều đang trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng. Trong thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục phối hợp chặt chẽ với cơ sở sản xuất, cơ sở nghiên cứu để rà soát, hướng dẫn đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, tổ chức nghiệm thu và thẩm định đảm bảo khách quan, khoa học theo đúng quy định.
13. Đối với nhiệm vụ: Giải quyết dứt điểm việc phân cấp quản lý đối với hệ thống trung tâm y tế cấp huyện, trạm y tế cấp xã theo hướng giao Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý ở những nơi đủ điều kiện theo quy định của Bộ Y tế:
Nhiệm vụ này thuộc thẩm quyền quyết định của địa phương theo quy định của pháp luật.
Việc quy định Trung tâm Y tế tuyến huyện trực thuộc Sở Y tế hay trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện cần bảo đảm cơ chế quản lý chung phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính (Luật Tổ chức Chính quyền địa phương) và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực trên địa bàn. Bộ Y tế đang xây dựng dự thảo Quyết định ban hành Quy định điều kiện chuyển Trung tâm Y tế cấp huyện trực thuộc Sở Y tế về Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý.
14. Đối với nhiệm vụ: Sắp xếp, bố trí mô hình trung tâm y tế cấp huyện đa chức năng để thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc nâng cao sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới (nhiệm vụ đã hoàn thành):
- Thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW; ngày 27/5/2021, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 07/2021/TT-BYT hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (mô hình Trung tâm Y tế đa chức năng). Hiện nay, 100% đơn vị cấp huyện có Trung tâm Y tế huyện; trong đó, 59/63 tỉnh đã thực hiện việc sáp nhập Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình vào Trung tâm Y tế huyện, còn 04 tỉnh còn đang giữ mô hình Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình ở cấp huyện. Đã có 61/63 địa phương quy định Trung tâm Y tế huyện là đơn vị sự nghiệp y tế công lập trực thuộc Sở Y tế; trong đó, thành phố Hồ Chí Minh chuyển Trung tâm Y tế huyện từ Ủy ban nhân dân cùng cấp về Sở Y tế quản lý từ năm 2020). Còn 02 địa phương đang giao Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý Trung tâm Y tế huyện: Bình Phước năm 2018; Hà Tĩnh năm 2020. Đối với trạm y tế xã, phường, thị trấn: Có 62/63 địa phương quy định Trạm y tế xã, phường, thị trấn là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện; tỉnh Quảng Ninh đang giao Phòng Y tế quản lý.
- Trong thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục đôn đốc, hướng dẫn hỗ trợ các địa phương thực hiện và hoàn thiện mô hình Trung tâm Y tế huyện theo hướng dẫn tại Thông tư số 07/2021/TT-BYT; đặc biệt đối với 04 địa phương đang giữ mô hình Trung tâm Dân số ở cấp huyện và cơ chế quản lý trạm y tế xã đối với tỉnh Quảng Ninh.
15. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng Đề án tăng cường năng lực hệ thống y tế trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Nâng cao năng lực y tế cơ sở, y tế dự phòng cả về nhân lực và cơ sở vật chất, trong đó, ưu tiên bố trí ngân sách cho y tế dự phòng theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, y tế cơ sở, đặc biệt là đối với các địa phương còn nhiều khó khăn; khẩn trương xây dựng các phòng thí nghiệm an toàn sinh học cấp độ 4; sớm hình thành các Trung tâm kiểm soát bệnh tật theo khu vực, theo vùng (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Chính phủ đã đưa Đề án tăng cường năng lực hệ thống y tế vào nội dung Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi; ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong đó đề ra 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong đó nhóm thứ nhất là mở cửa nền kinh tế gắn với đầu tư năng lực y tế, phòng chống dịch bệnh. Theo đó, Chương trình đã phân bổ 14.000 tỷ đồng cho ngành y tế để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng, trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh, nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh của Viện và Bệnh viện cấp trung ương gắn với đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực y tế, sản xuất vắc - xin trong nước và thuốc điều trị COVID-19.
- Bộ Y tế đang cùng với các chuyên gia JICA Nhật Bản, giao Viện Vệ sinh dịch tễ/Pasteur và các đơn vị liên quan để khảo sát, xây dựng phương án xây dựng phòng thí nghiệm an toàn sinh học cấp độ 4 phù hợp cả về hiệu quả đầu tư, kinh phí duy trì hoạt động cũng như các thủ tục cấp phép của Tổ chức Y tế Thế giới.
- Về việc hình thành các Trung tâm kiểm soát bệnh tật theo khu vực, theo vùng, Bộ Y tế đang nghiên cứu định hướng sắp xếp, phân bổ quy hoạch không gian mạng lưới cơ sở thuộc lĩnh vực y tế dự phòng và y tế công cộng “Thành lập CDC cấp quốc gia và tiếp tục củng cố, tăng cường hệ thống Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh. Tập trung phát triển một số CDC tỉnh/thành phố thuộc khu vực trọng điểm phải có sức cạnh tranh và khả năng liên kết quốc tế”.
16. Đối với nhiệm vụ: Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giá, đấu thầu và mua sắm trong lĩnh vực y tế; đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát và hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định pháp luật trong lĩnh vực y tế; chủ động kiểm tra, giám sát các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập trong việc triển khai xét nghiệm COVID-19, bảo đảm đúng quy định về giá (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về giá, đấu thầu và mua sắm trong lĩnh vực y tế, Bộ Y tế đã có các văn bản gửi Sở Y tế các tỉnh, thành phố, các đơn vị sản xuất, nhập khẩu và cung ứng trang thiết bị y tế nghiêm cấm việc tăng giá tùy tiện đầu cơ, tích trữ và thực hiện đúng quy định về quản lý giá thuốc, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong kinh doanh thuốc điều trị COVID-19; Nghiêm túc thực hiện việc kê khai, cập nhật công khai giá trang thiết bị y tế theo quy định tại Nghị định số 98/2021/NĐ-CP ngày 08/11/2021 quy định quản lý trang thiết bị y tế trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế tại địa chỉ https://kekhaigiattbyt.moh.gov.vn/ và trên trang thông tin điện tử của Cục Quản lý Dược: https://dichvucong.dav.gov.vn/congbogiathuoc/index; Chịu trách nhiệm về giá công bố và tính chính xác và đầy đủ các thông tin liên quan đến hàng hóa theo quy định...
- Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã có các văn bản gửi các lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố; Sở Y tế các tỉnh, thành phố về việc phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong thực hiện các biện pháp phòng chống dịch COVID-19; Tăng cường kiểm tra việc nhập khẩu, kinh doanh, mua sắm các loại test kit xét nghiệm nhanh và xét nghiệm RT-PCR.
- Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính ban hành các văn bản hướng dẫn các địa phương, đơn vị thực hiện đúng quy định về đấu thầu; thành lập nhiều Đoàn kiểm tra một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về mua sắm vật tư, trang thiết bị y tế, việc tiếp nhận, bảo quản, sử dụng vắc xin và tổ chức buổi tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19, việc sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh các sản phẩm sinh phẩm, trang thiết bị xét nghiệm, phòng hộ, khẩu trang y tế sử dụng trong công tác phòng, chống dịch COVID-19; công tác phòng, chống buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại và đầu cơ, tích trữ, nâng giá bất hợp lý đối với mặt hàng sinh phẩm, trang thiết bị xét nghiệm, phòng hộ, khẩu trang y tế trong công tác phòng, chống dịch COVID-19. Kiểm tra các sản phẩm xét nghiệm SARS-CoV-2 trôi nổi trên thị trường và hiện tượng lợi dụng dịch để nâng giá, đội giá, đảm bảo chất lượng và giá cả thị trường.
- Bộ Y tế đã chỉ đạo Sở Y tế các tỉnh/thành phố, các đơn vị thuộc và trực thuộc khẩn trương, nghiêm túc triển khai đúng các văn bản của Chính phủ; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong mua sắm trang thiết bị, thuốc, hóa chất, sinh phẩm phòng, chống dịch COVID-19.
- Bộ Công an đã tăng cường công tác nắm tình hình, nhận diện vi phạm, lựa chọn khâu đột phá để kiên quyết đấu tranh, xử lý triệt để các hành vi vi phạm trong lĩnh vực y tế, như: buôn lậu, gian lận thương mại, đầu cơ, nâng giá bất hợp lý; vi phạm các quy định về đấu giá, đấu thầu, mua sắm trang thiết bị y tế. Qua đó, Bộ Công an đã khởi tố, điều tra nhiều vụ án liên quan đến lĩnh vực này, như vụ án xảy ra tại Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Tim Hà Nội, Sở Y tế Hà Tĩnh... Qua các vụ án, Chính phủ đã có nhiều giải pháp khắc phục các sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn đối với các hành vi vi phạm xảy ra trong lĩnh vực này.
B. LĨNH VỰC LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
Tổng số nhiệm vụ thuộc lĩnh vực: 07 nhiệm vụ, trong đó:
1. Số nhiệm vụ quy định thời hạn hoàn thành: 02 nhiệm vụ; trong đó:
- Hoàn thành đúng và trước thời hạn quy định: 01 nhiệm vụ.
- Đang hoàn thành trong thời gian quy định: 01 nhiệm vụ.
2. Số nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành: 05 nhiệm vụ, trong đó: Đã hoàn thành 05 nhiệm vụ.
II. Kết quả thực hiện và phương hướng trong thời gian tới
1. Đối với nhiệm vụ: Đẩy nhanh việc triển khai các gói hỗ trợ đối tượng bị ảnh hưởng của dịch COVID-19, bảo đảm thuận lợi, chính xác, nhanh chóng. Rà soát, nghiên cứu, có đề xuất hỗ trợ kịp thời đối với người dân có hoàn cảnh khó khăn nhưng không thuộc đối tượng được hưởng theo quy định đã ban hành, quan tâm nhóm đối tượng yếu thế. Tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực, trục lợi chính sách:
Đến ngày 31/3/2022, trung ương và các địa phương đã dành tổng kinh phí 80.397 tỷ đồng thực hiện các chính sách hỗ trợ 728.244 lượt người sử dụng lao động và gần 49,15 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác.
Ngày 28/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động. Theo đó, 02 nhóm đối tượng sẽ được nhận hỗ trợ là người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp sẽ nhận được 500.000 đồng/người/tháng và người lao động quay trở lại thị trường lao động được nhận 1.000.000 đồng/người/tháng; thời gian hỗ trợ tối đa 03 tháng; phương thức chi trả hằng tháng. Đây là chương trình nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có nhân lực để kịp thời phục hồi sản xuất kinh doanh; thúc đẩy tăng trưởng, ưu tiên một số ngành, lĩnh vực tạo động lực để phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, thời gian thực hiện trong 6 tháng đầu năm 2022.
Kết quả cụ thể thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ:
Theo báo cáo của của 63 tỉnh, thành phố, tổng kinh phí thực hiện Nghị quyết 68, Quyết định 23 toàn quốc là 41.967 tỷ đồng, hỗ trợ trên 36,55 triệu lượt đối tượng (gồm 381.580 lượt đơn vị sử dụng lao động, trên 36,17 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác). Trong tổng kinh phí hỗ trợ, có 14,8% từ các chính sách bảo hiểm; 74,2% từ các chính sách bằng tiền trực tiếp và 11% từ các chính sách cho vay vốn.
Một số địa phương có tổng kinh phí hỗ trợ cao là thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ, Long An, Bắc Giang. Các địa phương có tổng kinh phí hỗ trợ thấp là Lai Châu, Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Giang, Điện Biên, Yên Bái, Kon Tum.
- Nhóm chính sách về bảo hiểm:
Tổng kinh phí hỗ trợ 3 chính sách về bảo hiểm là 6.191 tỷ đồng hỗ trợ cho 378.079 đơn vị sử dụng lao động và trên 11,46 triệu người lao động. Các địa phương có hỗ trợ kinh phí qua chính sách về bảo hiểm cao là: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Hà Nội, Đồng Nai, Hải Phòng, Bắc Ninh, Long An, Hải Dương, Đà Nẵng. Các địa phương có hỗ trợ kinh phí qua chính sách về bảo hiểm thấp là: Bắc Kạn, Điện Biên, Lai Châu, Cao Bằng, Hà Giang, Đăk Nông.
Cơ quan bảo hiểm xã hội đã rà soát và thông báo cho 375.335 đơn vị sử dụng lao động với 11.097.775 người lao động được giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ tháng 7/2021 đến hết tháng 6/2022 với tổng số tiền (tạm tính) khoảng 4.322 tỷ đồng.
Chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất đã được thực hiện với tổng số 2.729 đơn vị sử dụng lao động và 365.383 người lao động, tổng kinh phí 1.864 tỷ đồng. Các địa phương không có đối tượng được hỗ trợ là: Nam Định, Thái Bình, Đăk Nông và Kon Tum.
Tại 10 tỉnh, thành phố (Cao Bằng, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Thái Bình, Quảng Bình, Bình Định, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và An Giang), 15 đơn vị sử dụng lao động được phê duyệt hỗ trợ trên 5,44 tỷ đồng để đào tạo nghề, duy trì việc làm cho 1.540 người lao động.
- Nhóm chính sách hỗ trợ bằng tiền:
Tổng kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ bằng tiền là trên 31.142 tỷ đồng, hỗ trợ trên 23,52 triệu đối tượng. Các địa phương có tổng kinh phí hỗ trợ bằng tiền cao là: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ, Long An, Khánh Hòa. Các địa phương có tổng kinh phí hỗ trợ bằng tiền thấp là: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lai Châu, Phú Thọ, Yên Bái, Quảng Ngãi.
Trên 1,59 triệu người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương được hỗ trợ với tổng số tiền 5.727 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ cao là: Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Hà Nội, Bắc Giang.
661.430 người lao động ngừng việc được hỗ trợ 906 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Đồng Nai, Bắc Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bình Dương.
3.700 người lao động chấm dứt hợp đồng lao động được hỗ trợ trên 14,8 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai.
49.730 người lao động đang mang thai và 568.650 trẻ em dưới 6 tuổi là con của người lao động đã được hỗ trợ bổ sung với mức 01 triệu đồng/người.
Trên 1,17 triệu đối tượng F0, F1 đã được hỗ trợ tiền ăn với tổng kinh phí 946 tỷ đồng. 178.210 trẻ em, 2.095 người cao tuổi và 695 người khuyết tật là đối tượng F0, F1 được hỗ trợ bổ sung với mức 01 triệu đồng/người. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Long An, Bình Dương, Hà Nội, Bắc Giang, Nghệ An, Đồng Nai. Tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành chính sách không thu tiền ăn của đối tượng F0, F1 tại các cơ sở cách ly, điều trị tập trung nên không báo cáo số liệu cụ thể về chính sách này. Tỉnh Quảng Nam đã ban hành chính sách hỗ trợ tiền ăn cho người điều trị nhiễm COVID-19 tập trung (F0) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ ngày 01/01/2022 đến ngày 30/6/2022 từ nguồn ngân sách tỉnh đảm bảo 100%.
1.682 đạo diễn nghệ thuật, diễn viên, họa sĩ giữ chức danh nghề nghiệp hạng IV được hỗ trợ kinh phí gần 6,25 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế, Hà Nội, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Thái Nguyên.
15.734 hướng dẫn viên du lịch được hỗ trợ kinh phí 58,3 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Lâm Đồng.
373.700 hộ kinh doanh được hỗ trợ với kinh phí 877 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Hà Nội, Đồng Nai, Đồng Tháp.
Trên 18,94 triệu người lao động tự do và các đối tượng đặc thù đã được hỗ trợ với tổng kinh phí 22.424 tỷ đồng từ các nguồn ngân sách nhà nước, nguồn vận động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các công ty xổ số kiến thiết,... Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội, Cần Thơ, Trà Vinh (trong đó có địa phương chi cao hơn mức chung như Cần Thơ, Khánh Hòa,...). Các tỉnh: Bạc Liêu và Hòa Bình có hỗ trợ bổ sung (mức 01 triệu đồng/người) cho người lao động tự do đang mang thai (859 người) hoặc nuôi con nhỏ dưới 06 tuổi (27.296 trẻ em). Một số địa phương chưa có số liệu báo cáo hỗ trợ lao động tự do và đối tượng đặc thù: Tuyên Quang, Cao Bằng, Yên Bái, Bắc Kạn, Sơn La, Điện Biên, Hải Phòng, Bắc Ninh, Thái Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi.
- Nhóm chính sách cho vay vốn:
Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội, tính đến 25/3/2022 trên cả nước đã giải ngân được 4.633 tỷ đồng (đạt 62,1% tổng kinh phí dự kiến cho vay theo Nghị quyết số 68/NQ-CP) với 3.501 lượt người sử dụng lao động vay để trả lương cho gần 1,18 triệu lượt người lao động, trong đó:
Vay vốn để trả lương ngừng việc: tổng số tiền giải ngân là 262 tỷ đồng (chiếm 3,5% tổng số tiền cho vay) với 1.265 lượt người sử dụng lao động vay để trả lương ngừng việc cho 73.395 lượt người lao động.
Vay vốn phục hồi sản xuất kinh doanh đối với người sử dụng lao động phải ngừng hoạt động theo Chỉ thị số 16/CT-TTg: tổng số tiền giải ngân là 4.092 tỷ đồng (chiếm 46,8% tổng số tiền cho vay) với 1.863 lượt người sử dụng lao động vay để trả lương cho 1.036.000 lượt người lao động.
Vay vốn phục hồi sản xuất kinh doanh của 05 lĩnh vực (vận tải, hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú, xuất khẩu lao động): tổng số tiền giải ngân là 279 tỷ đồng (chiếm 3,0% tổng số tiền cho vay) với 3.73 lượt người sử dụng lao động vay để trả lương cho 70.285 lượt người lao động.
Số vốn cho vay tập trung ở một số tỉnh, thành phố có nhiều doanh nghiệp, chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch như Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Hà Nội, Bắc Ninh.
Một số giải pháp trong thời gian tới:
(1) Thực hiện quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11 tháng 01 năm 2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình; trong đó tập trung triển khai chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động; tiếp tục rà soát, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành và triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ người dân, người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh; triển khai các dự án đầu tư từ nguồn Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
(2) Tiếp tục triển khai Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030, Chương trình phục hồi và phát triển thị trường lao động, tập trung vào các hoạt động hỗ trợ người lao động quay trở lại nơi làm việc, cho vay giải quyết việc làm, hỗ trợ phát triển thị trường lao động; theo dõi chặt chẽ, nắm tình hình lao động, nhất là trong các khu công nghiệp, khu chế xuất để kịp thời có phương án hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động sau Tết. Tăng cường các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, kết nối cung - cầu lao động, đáp ứng đủ lao động cho các địa phương kinh tế trọng điểm. Hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng phương án tuyển chọn, đào tạo nguồn để đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài khi các nước mở cửa trở lại và đón số lao động đã hết hạn hợp đồng, không có nhu cầu ở lại nước ngoài, về nước bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
(3) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy định về pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động. Mở rộng diện bao phủ và phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện. Phấn đấu giảm số đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần, giảm tình trạng trốn đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về tiền lương nhằm khuyến khích, thu hút người lao động quay trở lại làm việc; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong bối cảnh mới, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao năng lực quản lý về an toàn, vệ sinh lao động. Triển khai thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động ở khu vực không có quan hệ lao động. Thực hiện các giải pháp thúc đẩy cải cách quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý, kiểm tra chuyên ngành. Làm tốt công tác quản lý, cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Hướng dẫn các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
(4) Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương cho học sinh, sinh viên trở lại học tập trung tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ. Đẩy mạnh thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho người lao động, nhất là ở những địa bàn, khu vực kinh tế trọng điểm, tập trung đông các khu công nghiệp, khu chế xuất để đáp ứng nhu cầu lao động có kỹ năng nghề cho phục hồi kinh tế, bảo đảm thích ứng với điều kiện sản xuất mới, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Triển khai thí điểm đào tạo, đào tạo lại nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở những ngành nghề mới và ngành, nghề cần bổ sung kỹ năng mới. Đẩy mạnh hướng nghiệp, phân luồng tuyển sinh và đào tạo thích ứng với sự tác động của dịch bệnh.
(5) Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường công tác chăm sóc người có công với cách mạng, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng nhằm bảo đảm mọi người có công đều được xác nhận, công nhận, tôn vinh và thụ hưởng đầy đủ các chế độ, chính sách của Nhà nước. Thực hiện đầy đủ, hiệu quả, công khai, minh bạch các chính sách và chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân của người có công với cách mạng. Thực hiện chi trả trợ cấp người có công thông qua tổ chức dịch vụ bưu chính công ích. Tiếp tục thực hiện Đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin; xác nhận, công nhận người có công với cách mạng và tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Tổ chức các hoạt động tri ân, thăm hỏi, tặng quà người có công với cách mạng và thân nhân nhân dịp Lễ kỷ niệm 75 năm ngày thương binh, liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2022).
(6) Thực hiện đầy đủ, hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, nhất là chính sách ưu đãi người có công, giảm nghèo, chăm lo đời sống người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2021-2025 với mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống; hỗ trợ các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách giảm nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025; xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện hiệu quả Phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021-2025 để tất cả xã hội cùng chung tay giúp đỡ người nghèo.
2. Đối với nhiệm vụ: Khẩn trương đánh giá, làm rõ nguyên nhân, có giải pháp tổng thể phục hồi, phát triển thị trường lao động trong nước. Trong năm 2021, ban hành và triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển thị trường lao động và an sinh xã hội phù hợp với tổng thể Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; trong đó, đặc biệt quan tâm việc phân bổ lại dân cư và lao động trên phạm vi toàn quốc, việc đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực, nâng cao kỹ năng nghề, nhà ở cho công nhân, người lao động, chính sách đối với lao động nữ, lao động khu vực phi chính thức và các đối tượng dễ bị tổn thương, bảo đảm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới:
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Quyết định số 1405/QĐ-LĐTBXH ngày 13/12/2021 về Chương trình hỗ trợ phục hồi và phát triển thị trường lao động, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp:
(1) Hỗ trợ trực tiếp người lao động: tuyên truyền, định hướng thông tin thị trường lao động, hỗ trợ tham gia kết nối cung cầu lao động, hỗ trợ trực tiếp cho người lao động các chi phí để mua nhu yếu phẩm, đi lại, chi trả tiền điện, tiền nước, nhà trọ, xét nghiệm Covid-19... để người lao động nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động. Các giải pháp có tính tới các địa bàn trọng điểm thuộc 4 vùng kinh tế trọng điểm, các địa phương có khu kinh tế lớn, các địa phương có lực lượng lao động lớn.
(2) Hỗ trợ người sử dụng lao động phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh tạo việc làm cho người lao động: Tập trung rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để giảm tối đa các chi phí đóng góp của doanh nghiệp trong năm 2022-2023 về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chi phí công đoàn; quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi phù hợp với trạng thái “bình thường mới”; các chính sách hỗ trợ giảm chi phí tuyển dụng lao động (miễn phí chi phí tuyển dụng qua hệ thống Trung tâm Dịch vụ việc làm, khuyến khích doanh nghiệp giảm chi phí, hỗ trợ tham gia các phiên giao dịch việc làm,...); có chính sách giảm lãi suất, bổ sung nguồn vốn để hỗ trợ hộ kinh doanh, người lao động phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh,...
(3) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cung lao động cung ứng kịp thời cho doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh: Các giải pháp tập trung vào đào tạo, bồi dưỡng gấp lao động phục vụ cho doanh nghiệp theo các cấp độ từ đào tạo phổ cập nghề đến đào tạo chất lượng cao, đào tạo đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; tập trung đào tạo trước mắt theo các nghề phục vụ phát triển các ngành kinh tế trọng yếu của đất nước. Đồng thời cũng đưa ra giải pháp để chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp thích ứng với của trạng thái “bình thường mới”.
(4) Hỗ trợ kết nối cung - cầu lao động: Các giải pháp tập trung vào việc hình thành hệ thống thu thập, chia sẻ thông tin về việc làm trống, người tìm việc để phục vụ kết nối, tăng cường tổ chức các phiên giao dịch việc làm; tổ chức thực hiện các gói hỗ trợ kết nối việc làm thành công để nâng cao hiệu quả, chất lượng tư vấn, giới thiệu việc làm; hiện đại hóa hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm; phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và hạ tầng số của hoạt động kết nối cung - cầu lao động.
(5) Phát triển bền vững thị trường lao động: Xây dựng và phát triển, hiện đại các thể chế của thị trường lao động; hiện đại hóa quản trị thị trường lao động. Tập trung rà soát các quy định của pháp luật, hình thành được cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động, việc làm có kết nối chia sẻ với cơ sở dữ liệu về dân cư để phục vụ quản lý, thực hiện các chính sách về lao động việc làm chính xác, kịp thời; có phương án kịp thời để huy động, điều tiết các đối tượng học sinh trường nghề, sinh viên, tham gia phục hồi sản xuất kinh doanh tại các doanh nghiệp, ngành nghề trọng yếu.
(6) Đảm bảo điều kiện về nơi sinh sống cho người lao động: Quy hoạch và phát triển các khu nhà cho thuê, nhà giá rẻ cho người lao động gắn với quy hoạch phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất; có chính sách ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư xây dựng, phát triển các nhà giá rẻ, nhà trọ cho người lao động thuê.
(7) Xây dựng và tổ chức thực hiện nội dung về thị trường lao động và việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ), Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 (Quyết định 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ).
(8) Triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình, trong đó, dự kiến bổ sung tối đa 10.000 tỷ đồng cho Ngân hàng Chính sách xã hội (tăng hạn mức bảo lãnh Chính phủ đối với trái phiếu phát hành trong nước cho Ngân hàng Chính sách xã hội) để cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm theo quy định tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm, Nghị định số 74/2019/NĐ-CP ngày 23/9/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2015/NĐ-CP đối với các người sử dụng lao động, người lao động bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19.
(9) Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định: Tập trung vào tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy định về pháp luật lao động, việc làm, phát triển đội ngũ hòa giải viên, trọng tài viên để kịp thời giải quyết tranh chấp lao động, đình công.
- Trong Quý I/2022, thị trường lao động có sự phục hồi tốt: Lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý I năm 2022 là 68,1%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước. Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I năm 2022 ước tính là 50 triệu người, tăng 132,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 13,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 27,8% tổng số; khu vực công nghiệp và xây dựng 16,7 triệu người, chiếm 33,5%; khu vực dịch vụ 19,4 triệu người, chiếm 38,7%. Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương trong quý I năm 2022 ước tính là 7,3 triệu đồng/tháng, tăng 1,2 triệu đồng so với quý trước và tăng 119 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu nhập của lao động nam là 7,7 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 6,8 triệu đồng/tháng.
Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động đều giảm so với quý trước, tuy vẫn cao hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng mức độ giảm dần: Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản quý I năm 2022 ước tính là 56,2%, trong đó khu vực thành thị là 48,1%; khu vực nông thôn là 62,9% (Quý I năm 2021 tương ứng là 57,1%; 48,4%; 64,3%).
Phương hướng triển khai trong thời gian tới
- Tập trung triển khai ngay Chương trình Hỗ Phục hồi và phát triển thị trường lao động, trong đó có những giải pháp cụ thể, ngắn hạn để góp phần hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động; hỗ trợ các doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh, hạn chế thiếu hụt nhân lực, đảm bảo sự lưu thông của thị trường lao động, đồng thời cũng có những giải pháp đảm bảo sự phát triển bền vững thị trường lao động sau đại dịch góp phần phục hồi nhanh nền kinh tế.
- Triển khai thực hiện Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 quy định thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, hướng dẫn bổ sung nguồn vốn, tổ chức thực hiện vay vốn, tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm, thực hiện các hoạt động để tăng cường kết nối cung - cầu lao động, nâng cao năng lực dự báo, thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để đào tạo những ngành nghề chất lượng cao,…
3. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng phương án hiệu quả khắc phục tình trạng số lượng lớn người lao động di chuyển tự phát khỏi các tỉnh, thành phố lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, bảo đảm an sinh xã hội tại các địa phương, nhất là các địa phương có người lao động hồi hương; có giải pháp “giữ chân” và “thu hút” lực lượng lao động quay trở lại nơi làm việc, khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động tại các vùng kinh tế trọng điểm. Tiếp tục củng cố quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.
- Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP, trong đó có các nội dung: hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, hướng dẫn bổ sung nguồn vốn, tổ chức thực hiện vay vốn, tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm, thực hiện các hoạt động để tăng cường kết nối cung - cầu lao động, nâng cao năng lực dự báo, thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để đào tạo những ngành nghề chất lượng cao,...
- Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động. Mục đích chính của chính sách là chia sẻ, hỗ trợ cho người lao động còn khó khăn về nhà ở yên tâm làm việc, tham gia phục hồi sản xuất cùng với người sử dụng lao động; hỗ trợ doanh nghiệp “giữ chân” được người lao động để có nhân lực cho phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh; hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh “thu hút” được lao động vào làm việc, hạn chế việc phải ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh do thiếu lao động; đặc biệt là hút trở lại những lao động do tác động của đại dịch COVID-19 đã phải di chuyển từ các trung tâm kinh tế - xã hội về quê.
Phương hướng thực hiện trong thời gian tới:
- Tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo quy định của Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022.
- Triển khai các hoạt động kết nối cung - cầu lao động thuộc Chương trình phục hồi và phát triển thị trường lao động (Quyết định số 1405/QĐ-LĐTBXH ngày 13/12/2021), Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ), về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình).
4. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực dài hạn, toàn diện, hướng tới thị trường lao động đa dạng. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động và nâng cao chất lượng dự báo. Nâng cao chất lượng công tác quản lý, theo dõi việc thực hiện khai trình lao động của người sử dụng lao động và gắn với chất lượng hoạt động dịch vụ việc làm của hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm. Năm 2022, hoàn thành Đề án nâng cao năng lực dự báo cung - cầu lao động. Năm 2024, thực hiện liên thông cơ sở dữ liệu về thị trường lao động.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 01/2022/TT-BLĐTBXH ngày 25/01/2022 hướng dẫn thu thập, lưu trữ và tổng hợp thông tin thị trường lao động; đang xây dựng, gửi lấy ý kiến về Thông tư xây dựng cơ sở dữ liệu người tìm việc - việc tìm người, quản lý lao động gắn với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững đến năm 2025.
- Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang làm việc với Bộ Công an để triển khai các hoạt động làm cơ sở kết nối cơ sở dữ liệu an sinh xã hội (việc làm, trẻ em, bảo trợ xã hội...) với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Phương hướng triển khai trong thời gian tới:
- Triển khai Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2239/QĐ-TTg ngày 30/12/2021, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương triển khai Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp, trong đó sẽ đưa ra các giải pháp đồng bộ để đổi mới giáo dục nghề nghiệp theo hướng hiện đại, đa dạng, mở, linh hoạt, liên thông, dễ tiếp cận về cơ cấu ngành/nghề, trình độ và phương thức đào tạo.
- Triển khai các hoạt động của tiểu dự án phát triển thị trường lao động, việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững đến năm 2025, trong đó tập trung vào các hoạt động để hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, dự báo thị trường lao động, hỗ trợ các hoạt động giao dịch việc làm,...
- Chính phủ đã giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xây dựng báo cáo nghiên cứu khả thi, triển khai dự án tăng cường kết nối cung - cầu lao động thuộc Chương trình phục hồi kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 11/NQ-CP; phối hợp với các cơ quan, đơn vị để hoàn thiện Đề án dự báo cung - cầu lao động.
5. Đối với nhiệm vụ: Rà soát, ban hành chính sách bảo trợ đối với trẻ em mồ côi do dịch COVID-19, bảo đảm trẻ em có nơi nương tựa, không bị bỏ rơi. Tăng cường các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, đặc biệt quan tâm phòng, chống xâm hại trẻ em.
- Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021, số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021, số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021 quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, trong đó có quy định: Hỗ trợ đối với trẻ em và người đang điều trị COVID-19, cách ly y tế về hỗ trợ tiền ăn cho trẻ em F0, F1 với 80.000đ/người/ngày và hỗ trợ thêm cho trẻ em F0, F1 1.000.000đ/trẻ em. Người lao động bị ảnh hưởng bởi COVID-19 đang mang thai được hỗ trợ thêm 1.000.000 đồng/người; người lao động đang nuôi con đẻ hoặc con nuôi hoặc chăm sóc thay thế trẻ em chưa đủ 06 tuổi được hỗ trợ thêm 1.000.000 đồng/trẻ em.
- Tính đến cuối tháng 3/2022, đã có 49.730 người lao động đang mang thai và 568.650 trẻ em dưới 6 tuổi là con của người lao động đã được hỗ trợ bổ sung với mức 01 triệu đồng/người. Trên 1,17 triệu đối tượng F0, F1 đã được hỗ trợ tiền ăn với tổng kinh phí 946 tỷ đồng. 178.210 trẻ em, 2.095 người cao tuổi và 695 người khuyết tật là đối tượng F0, F1 được hỗ trợ bổ sung với mức 01 triệu đồng/người.
- Hỗ trợ kịp thời trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 và trẻ em mồ côi do COVID-19 từ nguồn vận động xã hội của Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam: trẻ em là con của sản phụ bị nhiễm COVID-19 (mức hỗ trợ 1 triệu đồng/em); trẻ em có hoàn cảnh khó khăn mồ côi cha hoặc mẹ (mức hỗ trợ 5 triệu đồng/em); trẻ em mồ côi cả cha và mẹ chết do COVID-19 (hỗ trợ sổ tiết kiệm với định mức 20.000.000 đồng/sổ/trẻ em). Đến nay, Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam đã phối hợp với các tỉnh, thành phố hỗ trợ 3.695 trẻ em với tổng kinh phí là 18,298 tỷ đồng cho trẻ em, gồm: 3.303 trẻ em mồ côi mất cha, mẹ (mức 05 triệu đồng/trẻ em với tổng số tiền 16,515 tỷ đồng); 603 trẻ em sơ sinh là con của sản phụ bị nhiễm COVID-19 (mức 01 triệu đồng/trẻ em với tổng số tiền là 6,03 tỷ đồng); hỗ trợ sổ tiết kiệm cho 59 trẻ em mồ côi cả cha và mẹ (định mức 20.000.000 đồng/sổ/trẻ em với tổng số tiền là 1,180 tỷ đồng). Một số địa phương có nhiều đối tượng được hỗ trợ là Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, An Giang, Long An, Đồng Tháp.
- Ủy ban Quốc gia về trẻ em đã ban hành 01 Công văn chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố về việc triển khai kịp thời các biện pháp chăm sóc trẻ em mồ côi do đại dịch COVID-19, trong đó tập trung vào việc kịp thời lập danh sách, nguyện vọng của trẻ em mồ côi, người chăm sóc trẻ em, thực hiện chăm sóc thay thế để bảo đảm trẻ em mồ côi được sống trong môi trường gia đình, ưu tiên trẻ em được sống cùng người thân thích, nhận con nuôi; việc chuyển trẻ em đến cơ sở trợ giúp xã hội là biện pháp cuối cùng, hỗ trợ trẻ em bảo đảm ổn định tâm lý, học tập và pháp lý cho trẻ em .
- Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống COVID-19 chỉ đạo các Bộ ngành, địa phương, Ban Chỉ đạo phòng, chống COVID-19 của các địa phương có biện pháp bảo đảm an toàn cho trẻ em trong thời gian dịch bệnh.
- Chỉ đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 và bảo đảm an toàn cho trẻ em, chăm sóc trẻ em mồ côi trong đại dịch .
- Ban hành chính sách hỗ trợ cho trẻ em sơ sinh là con của sản phụ nhiễm COVID-19, về hỗ trợ cho trẻ em bị nhiễm COVID-19 và trẻ em phải cách ly tập trung để phòng, chống dịch COVID-19 từ nguồn kinh phí vận động của Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam.
- Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ: Lao động - Thương binh và Xã hội, Quốc phòng, Y tế, Giáo dục và Đào tạo phối hợp triển khai hướng dẫn bảo đảm an toàn cho trẻ em trong khu cách ly tập trung, hướng dẫn kiến thức, kỹ năng về chăm sóc sức khỏe, tâm lý xã hội và bảo đảm an toàn cho trẻ em trong dịch COVID-19.
- Tăng cường công tác truyền thông hướng dẫn kiến thức, kỹ năng về bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đặc biệt chăm sóc, hỗ trợ trẻ em mồ côi trong dịch COVID-19: xây dựng, phát hành các tài liệu hướng dẫn, sản phẩm truyền thông; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Bộ Quốc phòng và các tổ chức quốc tế in ấn và phát hành 200.000 sản phẩm truyền thông về hướng dẫn bảo đảm an toàn cho phụ nữ và trẻ em trong khu cách ly tập trung (bằng tiếng Việt và tiếng Anh) đến gần 400 cơ sở cách ly tập trung.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các tổ chức quốc tế triển khai các chiến dịch truyền thông nhằm nâng cao nhận thức xã hội về tác động của COVID-19 đến phụ nữ và trẻ em, hướng dẫn bảo đảm an toàn cho trẻ em tại gia đình, cơ sở trợ giúp trẻ em, cơ sở cách ly tập trung.
- Tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng xã hội, các chiến dịch truyền thông về chăm sóc trẻ em mồ côi do dịch COVID-19, chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội cho trẻ em, phòng ngừa, bạo lực, xâm hại trẻ em, giải đáp chính sách hỗ trợ trẻ em bị ảnh hưởng bởi COVID-19.
- Triển khai 03 chiến dịch truyền thông về bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong dịch COVID-19 (chiến dịch “Trái tim xanh phòng, chống bạo lực trẻ em và phụ nữ”, “Ngày thế giới phòng, chống lao động trẻ em”, tọa đàm trực tuyến về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trước tác động của đại dịch COVID-19; tọa đàm về chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội cho trẻ em nhân ngày thế giới trẻ em
- Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em 111 đã phối hợp hình thành mạng lưới với các chuyên gia về tâm lý, tình nguyện sẵn sàng tiếp nhận hỗ trợ, can thiệp các trường hợp trẻ bị sang chấn tâm lý trong bối cảnh COVID-19, hướng dẫn chăm sóc cho trẻ em trong các khu cách ly tập trung thông qua hình thức trực tuyến, triển khai chăm sóc, ổn định tâm lý, phòng ngừa, phát hiện sớm và xử lý những sang chấn tâm lý của trẻ em trong bối cảnh cách ly, giãn cách xã hội. Tổng đài 111 đã tiếp nhận, tư vấn 1.110 ca liên quan đến Covid-19; can thiệp hỗ trợ 35 ca trẻ em liên quan đến dịch Covid-19 và 935 ca liên quan đến trẻ em bị bạo lực.
- Hỗ trợ kịp thời trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và trẻ em mồ côi do COVID-19 về chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng; không bị gián đoạn việc học tập; triển khai và kết nối các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội và trợ giúp pháp lý để quyền, lợi ích của trẻ em không bị xâm hại do các em không có sự giám hộ của cha, mẹ; chăm sóc thay thế cho các em, ưu tiên bố trí, hỗ trợ để trẻ em được chăm sóc thay thế bởi người thân, bởi cá nhân, gia đình nhận chăm sóc để trẻ em được sống trong môi trường gia đình và bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Hiện nay, trẻ em mồ côi do COVID-19 đều được chăm sóc, nuôi dưỡng bởi gia đình họ hàng, thân thích, được chăm sóc đỡ đầu bởi các cá nhân, tổ chức.
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở, các cán bộ tại cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em về thực hiện chăm sóc trẻ em mồ côi, quy trình chăm sóc thay thế cho trẻ em mồ côi, phòng chống xâm hại trẻ em trong dịch COVID-19, chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội cho trẻ em bao gồm: Xây dựng 05 bộ tài liệu tập huấn, hướng dẫn quy trình can thiệp phòng ngừa xâm hại trẻ em trong COVID-19, quy trình chăm sóc thay thế trẻ em mồ côi do COVID-19, chăm sóc sức khỏe tâm thần và xây dựng bài giảng trực tuyến cho chương trình đào tạo về Chăm sóc sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội cho trẻ em; Tổ chức 09 khóa tập huấn cơ bản và nâng cao về chăm sóc sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội cho trẻ em trong đại dịch COVID-19, phòng ngừa xâm hại bạo lực trẻ em, phòng ngừa lao động trẻ em, hỗ trợ chăm sóc thay thế trẻ em mồ côi do COVID-19, phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em.
- Tăng cường công tác liên ngành và phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành triển khai các giải pháp ứng phó hỗ trợ bảo đảm quyền trẻ em trong COVID-19:
Các Bộ ngành, UNICEF và các tổ chức quốc tế đã phối hợp tổ chức Hội nghị trực tuyến đánh giá và triển khai một số giải pháp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong đại dịch COVID-19 (vào ngày 8/9/2021);
Bộ Y tế triển khai kịp thời công tác điều trị cho trẻ em nhiễm COVID-19 tại cơ sở điều trị, tại nhà; hướng dẫn phòng chống lây nhiễm COVID-19 cho trẻ em tại các khu cách ly tập trung, tại nhà, tại trường học; Chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh bảo đảm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho trẻ em; Chỉ đạo thần tốc việc huy động nguồn vaccin phòng COVID-19 và triển khai tiêm phòng COVID-19 cho trẻ em theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới;
Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai quyết liệt, mạnh mẽ, hiệu quả các giải pháp phòng, chống dịch với mục tiêu "đảm bảo sức khỏe, an toàn của học sinh, sinh viên, giáo viên lên trên hết" đồng thời thực hiện phương châm "tạm dừng đến trường, không dừng học"; kịp thời ban hành các văn bản nhằm đảm bảo quyền được học tập của trẻ em trong môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện. Xây dựng bài tập phát triển thể chất cho học sinh lớp 1 trong thời gian học tập giãn cách phòng chống COVID-19; xây dựng tài liệu và tổ chức tập huấn lãnh đạo, cán bộ nòng cốt các Sở Giáo dục và Đào tạo toàn quốc về giáo dục an toàn mạng cho học sinh;
Bộ Tư pháp có văn bản gửi Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại 63 tỉnh, thành phố, trong đó yêu cầu các Trung tâm tổ chức triển khai hiệu quả, các hoạt động trợ giúp pháp lý cho trẻ em, đặc biệt trẻ em mồ côi trong tình hình dịch COVID-19; phối hợp với các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cùng Ủy ban nhân dân 22 tỉnh/thành phố khác tổ chức đợt 2 Lễ giao nhận con nuôi tại Thành phố Hồ Chí Minh cho 91 gia đình thuộc 8 nước Châu Âu;
Bộ Công an đã chủ động nắm chắc tình hình, phân tích, tham mưu, đề xuất về tác động của dịch bệnh đối với kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát dịch bệnh. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý xuất nhập cảnh, quản lý người nước ngoài, kiểm soát nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh. Tiếp tục nắm chắc tình hình triển khai việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-10; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi lợi dụng chính sách để vi phạm pháp luật, đặc biệt là vi phạm pháp luật trên không gian mạng; chủ động các biện pháp phòng ngừa tội phạm có liên quan... Đồng thời, tiếp tục phát huy hiệu quả nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và căn cước công dân phục vụ quản trị xã hội trong điều kiện bình thường mới. Bên cạnh đó, Bộ Công an đã huy động hơn 150.000 cán bộ, chiến sĩ tham gia trong hầu hết các khâu công tác phòng, chống dịch; gần 2000 cán bộ y tế Công an tham gia vận hành các bệnh viện dã chiến điều trị Covid-19 cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân... Lực lượng Công an nhân dân đã cùng với các lực lượng tuyến đầu không quản ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh bản thân mình, tất cả vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.
Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định số 512A/QĐ-TANDTC ngày 19/11/2021 về việc triển khai Nghị quyết số 33/2021/QH15 về tổ chức phiên tòa trực tuyến nhằm bảo đảm tư pháp không chậm trễ, xét xử nhanh chóng, kịp thời.
- Chính phủ đã chỉ đạo các bộ ngành, địa phương, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cá nhân phối hợp triển khai các gói hỗ trợ trẻ em bị ảnh hưởng, trẻ em mồ côi do COVID-19 bảo đảm cuộc sống trước mắt và lâu dài: (i) Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phát động Chương trình “Nối vòng tay thương”, triển khai chương trình “Triệu ly sữa và hành trình của những cuốn sách”, “Chia sẻ cùng em thơ, chung tay vượt qua đại dịch”; Thiếu nhi Việt Nam - Vui khỏe an toàn đánh tan COVID-19”, “Cùng em học trực tuyến”; (ii) Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thực hiện Chương trình "Phối hợp hỗ trợ đỡ đầu, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi trong đại dịch COVID-19 có hoàn cảnh khó khăn; (iii) Mặt trận Tổ quốc Việt các cấp đã phối hợp cấp ủy chính quyền cùng cấp vận động hỗ trợ các gia đình khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19; Hàng triệu trẻ em được nhận các phần quà, các thiết bị học trực tuyến, các gói về an sinh xã hội thông qua Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam; (iv) Hội Bảo vệ quyền trẻ em phát động phong trào “sữa yêu thương” cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19; (v) Tập đoàn FPT triển khai hỗ trợ giáo dục và nuôi dưỡng trẻ em mồ côi do COVID-19 có nhu cầu được học tập tại cơ sở trường nội trú của FPT.
- Thanh tra, kiểm tra thực hiện quyền trẻ em trong dịch COVID-19: Triển khai các hoạt động kiểm tra, thanh tra liên ngành và chuyên đề việc thực hiện luật pháp, chính sách, chương trình, đề án về trẻ em, trong đó chú trọng đến việc kiểm tra, thanh tra trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong thực hiện Luật trẻ em, Nghị quyết số 121/2020/QH14 của Quốc hội, Chỉ thị số 23/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và trách nhiệm của người đứng đầu trong việc để xảy ra các vụ việc vi phạm quyền trẻ em, đặc biệt xâm hại trẻ em, phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em, bảo đảm quyền trẻ em và các chính sách hỗ trợ cho trẻ em trong đại dịch COVID-19 theo Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ưu tiên kiểm tra, thanh tra liên ngành tại địa phương xảy ra nhiều vấn đề nóng liên quan đến trẻ em (tại 08 tỉnh, thành phố: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hòa Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Tp Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu). Chỉ đạo các địa phương tiến hành việc rà soát, kiểm tra, thanh tra việc chăm sóc, nuôi dưỡng, hỗ trợ trẻ em của các cơ sở trợ giúp xã hội, các quỹ từ thiện nhằm đảm bảo quyền trẻ em (Công văn số 70/LĐTBXH-TE, ngày 07/01/2022).
- Tăng cường hợp tác quốc tế: phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) và các tổ chức quốc tế khác nghiên cứu, đánh giá tác động của đại dịch COVID-19 đến quyền trẻ em để làm cơ sở xây dựng các chính sách, kế hoạch đặc thù, thực hiện giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em sau đại dịch, triển khai xây dựng hướng dẫn, các tài liệu truyền thông, tập huấn cho đội ngũ cán bộ tại cơ sở về bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi COVID-19, hỗ trợ chuyên gia tư vấn và triển khai quản lý ca hỗ trợ dịch vụ cho trẻ em.
Phương hướng trong thời gian tới:
- Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và giải quyết các vấn đề về trẻ em
Nghiên cứu, đánh giá tác động của đại dịch COVID-19 đến việc thực hiện quyền trẻ em và các mục tiêu trung hạn, dài hạn về phát triển toàn diện trẻ em. Rà soát, nghiên cứu, hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em thống nhất với Luật Trẻ em, Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em theo hướng đồng bộ, khả thi, đáp ứng yêu cầu về công tác trẻ em.
Nghiên cứu xây dựng, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách, liên quan đến việc chăm sóc bảo vệ trẻ em trong tình trạng khẩn cấp, đặc biệt là thiên tai, dịch bệnh. Tham mưu ban hành chính sách, giải pháp chăm sóc, bảo vệ, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi nói chung và trẻ em mồ côi do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội, trẻ em di cư, trẻ em phải tách khỏi gia đình do bị bạo lực, xâm hại.
Nghiên cứu, xây dựng chương trình khắc phục hạn chế, ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 đối với trẻ em như: chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội, chăm sóc trẻ em mồ côi nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện của trẻ em.
Phối hợp rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em trong Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng, chống bạo lực gia đình.
- Giải pháp về tổ chức thực hiện.
Triển khai thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định, Kết luận của Quốc hội, Chính phủ, liên quan đến trẻ em, đặc biệt là triển khai các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 121/2020/QH14 ngày 19/6/2020, đặc biệt là triển khai thực hiện Chỉ thị số 36/CT-TTg ngày 31/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. Nghị quyết số 38/NQ-CP của Chính phủ ngày 17/3/2022 về việc ban hành Chương trình phòng, chống dịch COVID-19; Quyết định số 1472/QĐ-TTg ngày 28/9/2020, Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 26/5/2020; Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 07/01/2021 và các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực trẻ em giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Tăng cường triển khai các quy định pháp luật, chính sách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em mồ côi, chính sách trợ giúp xã hội đối với nhóm trẻ em mồ côi theo quy định của Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2021 (có hiệu lực ngày 01/7/2021) của Chính phủ về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.
Phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em tại cộng đồng để cung cấp kịp thời các dịch vụ về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em mồ côi, trẻ em vùng khó khăn, miền núi dân tộc thiểu số. Tăng cường năng lực cho Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em 111 trong tiếp nhận, hỗ trợ và chuyển gửi các trường hợp trẻ em cần hỗ trợ, can thiệp khẩn cấp. Tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội cho trẻ em.
Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội, chú trọng truyền thông tư vấn, phổ biến kiến thức trực tiếp đến cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em, người cung cấp dịch vụ y tế, dịch vụ xã hội, người hoạt động tình nguyện, từ thiện xã hội gia đình, cộng đồng dân cư, truyền thông đến được từng lớp học, đặc biệt vùng khó khăn, dân tộc thiểu số, miền núi về các nội dung giáo dục kiến thức kỹ năng làm cha mẹ, về thực hiện quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em phòng, chống xâm hại trẻ em, phòng, chống tai nạn thương tích, chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội. Tổ chức các chiến dịch truyền thông, vận động xã hội, đặc biệt tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin và mạng xã hội. Hướng dẫn kiến thức, kỹ năng cho trẻ em biết tự bảo vệ mình.
Nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành về thực hiện quy trình hỗ trợ, can thiệp trường hợp trẻ em bị xâm hại, có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; nghiên cứu xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật và khung giá về dịch vụ công về bảo vệ trẻ em.
Tăng cường phối hợp liên ngành và huy động sự tham gia của các hội, các tổ chức, cộng đồng, các nhóm xã hội thiện nguyện, các nhóm bác sĩ tình nguyện khám bệnh trực tuyến, các chuyên gia tạo thành mạng lưới kết nối hỗ trợ trẻ em bị ảnh hưởng bởi COVID-19.
Tăng cường phối hợp và trách nhiệm của các Bộ, ngành trong việc triển khai các quy định của pháp luật, các chính sách hỗ trợ chăm sóc bảo vệ trẻ em nhằm bảo đảm các quyền trẻ em, trẻ em được phát triển toàn diện đặc biệt trong việc ứng phó với dịch COVID-19 cụ thể: (i) Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn các biện pháp phòng, chống dịch và đẩy mạnh thực hiện việc tiêm vắc-xin phòng COVID-19 cho trẻ em theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chỉ đạo việc điều trị và chăm sóc trẻ em bị nhiễm COVID-19 và ảnh hưởng bởi COVID-19; (ii) Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức dạy học an toàn, bảo đảm chương trình và mục tiêu chất lượng đào tạo, giáo dục. Bảo đảm an toàn khi học sinh trở lại trường học; (iii) Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm phát huy vai trò của gia đình trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em nhất là trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19; (iv) Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình "Sóng và máy tính cho em". Hướng dẫn các cơ quan báo chí, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ trên môi trường mạng phổ biến kiến thức, kỹ năng về các hoạt động hỗ trợ thể chất và tinh thần phù hợp với trẻ em, góp phần chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội và phòng, chống bạo lực, xâm hại, tai nạn, thương tích cho trẻ em.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các chính sách, pháp luật về quyền trẻ em và phòng, chống xâm hại trẻ em, bảo đảm thực hiện quyền trẻ em trong dịch bệnh COVID-19, chỉ đạo thanh tra, kiểm tra trên phạm vi toàn quốc các cơ sở trợ giúp xã hội công lập và ngoài công lập. Xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra bạo lực, xâm hại trẻ em; xử lý nghiêm hành vi vi phạm quyền trẻ em.
Tăng cường nhân lực làm công tác bảo vệ trẻ em ở cấp xã thông qua việc chủ động phối hợp với Bộ Y tế nghiên cứu, xây dựng, phát triển mô hình “Mạng lưới cộng tác viên dân số kiêm công tác gia đình và trẻ em”.
Tăng cường công tác đào tạo nâng cao năng lực cho các cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em các cấp đặc biệt là cán bộ tại cộng đồng, cán bộ hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em về chăm sóc bảo vệ trẻ em.
Phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em trong Chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết một số vấn đề xã hội; lồng ghép nguồn lực bảo vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em trong các Chương trình mục tiêu quốc gia. Thúc đẩy sự tham gia của đoàn viên, hội viên thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và đơn vị có liên quan tham gia mạng lưới bảo vệ trẻ em.
Phối hợp với Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị xã hội hướng dẫn, điều phối nguồn lực hỗ trợ của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hỗ trợ bảo đảm cuộc sống lâu dài cho trẻ em mồ côi nói chung đặc biệt là mồ côi do COVID-19.
Ưu tiên bố trí ngân sách để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu về trẻ em, đặc biệt về bảo vệ trẻ em; đẩy mạnh vận động nguồn lực xã hội thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu về trẻ em.
Nâng cấp, phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu trẻ em; tăng cường chất lượng thống kê, theo dõi tình hình trẻ em, đặc biệt trẻ em bị xâm hại, tai nạn, thương tích trẻ em; triển khai kết nối, liên thông cơ sở dữ liệu trẻ em với cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia và cơ sở dữ liệu khác.
Chủ động, tham mưu phối hợp và thực hiện các Điều ước, Công ước, Khuyến nghị của Liên hợp quốc liên quan đến quyền trẻ em; tham gia các liên minh, phong trào thực hiện quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em toàn cầu và khu vực; tranh thủ vận động sự hỗ trợ kinh phí và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế đa phương và song phương để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu về trẻ em.
6. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác trợ giúp xã hội và công tác thiện nguyện, bảo đảm công khai, minh bạch. Khẩn trương làm rõ các vấn đề dư luận quan tâm trong thời gian qua; đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân có sai phạm trong việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội và quản lý vận động, tiếp nhận, sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện, lợi dụng thiên tai, dịch bệnh, các hoàn cảnh khó khăn để kêu gọi hỗ trợ từ thiện nhằm trục lợi.
Năm 2021, Chính phủ đã ban hành 01 Nghị định; Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành 03 Quyết định; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành 01 Thông tư hướng dẫn về công tác trợ giúp xã hội và công tác thiện nguyện. Các văn bản soạn thảo, trình ban hành đều xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của đối tượng, ban hành bảo đảm tính kế thừa, đổi mới theo hướng hiện đại và tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật.
6.1. Kết quả thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
- Để bảo đảm thực hiện tốt công tác trợ giúp xã hội, hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thực hiện việc cứu trợ, khắc phục hậu quả thiên tai, bảo đảm ổn định đời sống nhân dân khi thiên tai, dịch bệnh xảy ra, theo dõi sát tình hình, diễn biến thiên tai, dịch bệnh, rà soát, thống kê tình hình thiệt hại, số hộ, số khẩu bị thiệt hại, người chết, mất tích hoặc bị thương, các hộ có nhà đổ, sập, trôi có nguy cơ thiếu đói trên địa bàn do ảnh hưởng của mưa, bão, nhất là các hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số; chủ động huy động nguồn lực địa phương để hỗ trợ kịp thời cho người dân bị thiếu đói; trường hợp địa phương khó khăn không tự giải quyết được thì chủ động đề nghị Trung ương hỗ trợ.
- Trên cơ sở đề xuất nhu cầu hỗ trợ gạo cứu đói của 41 tỉnh, thành phố, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định xuất cấp tổng cộng 158.136,660 tấn gạo để hỗ trợ cho 2.715.530 hộ dân với 10.542.444 nhân khẩu.
- Bên cạnh đó, công tác thu dung, hỗ trợ nơi ở khẩn cấp cho người lang thang, cơ nhỡ, người không có chỗ ở tạm thời theo Công điện số 1105/CĐ-TTg ngày 27/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã được các địa phương quyết liệt triển khai trên địa bàn để xét nghiệm, phân loại, đưa vào các cơ sở trợ giúp xã hội hoặc tổ chức quản lý để thực hiện các chính sách an sinh xã hội và phòng, chống dịch COVID-19. Đến nay, đã có hơn 2.000 người được thu dung đưa vào tạm thời ở các cơ sở bảo trợ xã hội, trung tâm công tác xã hội như: Thành phố Hồ Chí Minh thu dung hơn 1.039 người, Hà Nội thu dung 133 người; Khánh Hòa thu dung 80 người; tỉnh Đồng Nai thu dung 40 người (ở thành phố Biên Hòa)...
- Công tác triển khai các túi an sinh xã hội để hỗ trợ khẩn cấp cho người dân tại các tỉnh, thành phố đang thực hiện giãn cách được tập trung vào các nhóm đối tượng người nghèo đô thị, người dân là lao động tự do, mất việc, bệnh nhân đang bị bệnh hiểm nghèo, gia đình có người thân là F0, F1, có hoàn cảnh khó khăn... Đến nay, thành phố Hồ Chí Minh đang đi đầu trong việc cấp phát túi an sinh xã hội để hỗ trợ người dân với hơn 1,8 triệu túi (trị giá mỗi túi 300 nghìn đồng); Thành đoàn Cần Thơ đã trao tặng gần 19.000 túi an sinh cho người dân và thanh thiếu nhi gặp nhiều khó khăn do dịch Covid-19 với tổng kinh phí gần 5,2 tỉ đồng; thành phố Hà Nội hỗ trợ cho 900.000 lượt người, hộ gia đình với tổng kinh phí gần 272 tỷ đồng; tỉnh Thanh Hóa hỗ trợ 67.000 hộ gia đình mỗi hộ 1 túi an sinh xã hội trị giá lên tới 1.8 triệu đồng ...
6.2. Về trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng
Thực hiện Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013, theo số liệu báo cáo địa phương, cả nước đã có 3,13 triệu (khoảng 3% dân số) người hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên (trong đó có 1,808 triệu người cao tuổi, 1,096 triệu người khuyết tật, 49,1 nghìn trẻ em mồ côi và hơn 180 nghìn hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc nuôi dưỡng đối tượng); 48.423 người đang được nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội. Tổng kinh phí thực hiện chính sách là 17.563 tỷ đồng. Công tác chi trả trợ cấp xã hội hàng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội tiếp tục được triển khai thông qua cơ quan Bưu điện tại 61/63 tỉnh, thành phố (còn thành phố Hà Nội và Đồng Tháp chưa triển khai thực hiện).
Tuy nhiên, do tác động của các yếu tố khách quan như vấn đề già hóa dân số, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, quá trình phát triển kinh tế dẫn đến những quy định tại nghị định số 136/2013/NĐ-CP không còn phù hợp, mức trợ giúp xã hội quá thấp, không bảo đảm đời sống tối thiểu của người hưởng; còn một bộ phận dân cư khó khăn chưa hưởng chính sách, cần được rà soát quy định bổ sung; trình tự thủ tục, quy trình quyết định chính sách phức tạp, cần đổi mới xác định đối tượng, cắt giảm và hợp nhất thủ tục hồ sơ và giảm thời gian quyết định chính sách. Để tăng cường bảo đảm an sinh xã hội, trợ giúp xã hội cho đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, từng bước nâng cao chất lượng chính sách, bảo đảm sự tương đồng với các chính sách xã hội khác; phân cấp trách nhiệm cho các địa phương trong việc mở rộng đối tượng, nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội và cải cách thủ tục hành chính.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Trên cơ sở đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có Thông tư số 02/2021/TT-BLĐTBXH ngày 24/6/2021 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, tổ chức rà soát đối tượng, tăng cường giải quyết chính sách trợ giúp cho đối tượng theo mức mới bảo đảm kịp thời, đầy đủ từ ngày 01/7/2021. Đến thời điểm hiện nay, 63/63 tỉnh, thành phố đã thực hiện các chế độ, chính sách theo quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, bảo đảm đối tượng đang hưởng chính sách trợ giúp xã hội được chuyển sang hưởng mức mới từ ngày 1/7/2021. Tổng số đối tượng hưởng chính sách trợ giúp xã hội từ 1/7/2021 dự kiến theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP là khoảng 3,25 triệu đối tượng, tăng khoảng 120 ngàn đối tượng so với Nghị định 136/2013/NĐ-CP. Kinh phí chi cho 120 ngàn đối tượng tăng thêm theo Nghị định khoảng 820 tỷ đồng/năm.
Ngân sách chi trợ giúp xã hội hàng tháng, cấp thẻ bảo hiểm y tế, mai táng phí cho đối tượng theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP khoảng 23.675 tỷ đồng/năm. Đến thời điểm Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP đã có 12 tỉnh, thành phố chủ động tăng mức chuẩn trợ cấp, mức trung bình khoảng 390.000 đồng/tháng, cho gần 700.000 đối tượng với kinh phí 3.514 tỷ đồng/năm. Trong đó, tỉnh Vĩnh Phúc quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội bằng 1/3 mức lương cơ sở, cao nhất trong cả nước (tương đương khoảng 500.000 đồng/tháng). Do đó kinh phí tăng thêm năm 2021 khoảng 3.000 tỷ đồng.
Việc thực hiện tốt chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an sinh xã hội, ổn định đời sống người dân, đặc biệt là người dân gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh.
6.3. Đối với việc làm rõ các vấn đề dư luận quan tâm, tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân có sai phạm trong thực hiện chính sách trợ giúp xã hội và quản lý vận động, tiếp nhận, sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện, lợi dụng thiên tai, dịch bệnh, các hoàn cảnh khó khăn để kêu gọi hỗ trợ từ thiện nhằm trục lợi
Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các cơ quan liên quan đã tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội tại các địa phương, việc quản lý, tiếp nhận và sử dụng nguồn đóng góp tự nguồn hỗ trợ nhân dân và các địa phương bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh bảo đảm đúng chế độ, chính sách.
Đối với những vấn đề dư luận quan tâm trong thời gian vừa qua về tiếp nhận, sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện, Bộ Công an đã chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương có liên quan triển khai các hoạt động điều tra, xác minh, thu thập, đánh giá tài liệu để kết luận đối với các tố giác, tin báo về tội phạm liên quan đến hoạt động này theo đúng quy định của pháp luật. Từ kết quả công tác điều tra, xác minh, giải quyết các vụ việc, Bộ Công an đã kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành các quy định chi tiết để các hoạt động từ thiện được minh bạch, chuyên nghiệp, mang lại hiệu quả thiết thực.
7. Đối với nhiệm vụ: Quan tâm giải quyết những vấn đề quan trọng, bức xúc như: đổi mới hệ thống giáo dục nghề nghiệp, chính sách xã hội hóa về bảo trợ xã hội; tình trạng người lao động bán sổ bảo hiểm xã hội; tiền lương đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995; việc triển khai chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững... đặt trong bối cảnh tác động của dịch COVID-19.
7.1. Về nội dung đổi mới giáo dục nghề nghiệp:
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã và đang tập trung triển khai nâng cao nguồn nhân lực có kỹ năng nghề, phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả và hội nhập; tập trung đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho người lao động ở những địa bàn, khu vực kinh tế trọng điểm, tập trung đông các khu công nghiệp, khu chế xuất để phục vụ cho phục hồi sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, bảo đảm thích ứng với điều kiện sản xuất mới. Một số kết quả cụ thể đã đạt được như sau:
a) Công tác tuyển sinh, triển khai đào tạo, đào tạo lại:
- Ước tuyển sinh 3 tháng đầu năm đạt: 369,6 nghìn người (đạt 17,7% kế hoạch), trong đó: trình độ cao đẳng, trung cấp là 19,6 nghìn người (đạt 3,7% kế hoạch giao), trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo khác là 350 nghìn người (đạt 22,5% kế hoạch giao).
- Hướng dẫn các địa phương đưa học sinh, sinh viên trở lại trường học tập trung và tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn công tác tuyển sinh năm 2022. Chỉ đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đẩy mạnh hoạt động hợp tác với doanh nghiệp để đưa học sinh, sinh viên năm cuối đi thực hành, thực tập và tham gia vào các hoạt động hỗ trợ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới phương thức đào tạo thích ứng với sự tác động của dịch bệnh.
- Tiếp tục tổ chức đào tạo chất lượng cao tại các trường được lựa chọn để đầu tư thành trường chất lượng cao theo 22 nghề cấp độ quốc tế đã chuyển giao từ Đức; Triển khai kế hoạch đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo Quyết định số 1446/QĐ-TTg ngày 30/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Triển khai các hoạt động gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động và việc làm bền vững và các hoạt động gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động và việc làm bền vững.
- Hướng dẫn địa phương, cơ sở tổ chức đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo thường xuyên, đào tạo nghề cho lao động nông thôn, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo và các đối tượng chính sách khác.
- Hướng dẫn các địa phương, đơn vị tăng cường triển khai chính sách hỗ trợ đào tạo để duy trì việc làm cho người lao động theo Nghị quyết 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg.
b) Công tác rà soát, sắp xếp cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập và lập Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045
Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo xem xét rà soát để phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
c) Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp
- Xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ nhà giáo giáo dục nghề nghiệp, người dạy nghề; kế hoạch tổ chức các khóa bồi dưỡng Nâng cao năng lực giảng dạy số trong giáo dục nghề nghiệp năm 2022; kế hoạch công tác tổ chức bình chọn Nhà giáo tiêu biểu hàng năm; tôn vinh nhà giáo tiêu biểu 2022 và Kỷ niệm 40 năm ngày nhà giáo Việt Nam 20/11; kế hoạch tổ chức cuộc thi Thiết kế dạy học trực tuyến trong giáo dục nghề nghiệp năm 2022.
- Xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động: xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật, danh mục thiết bị đào tạo tối thiểu, tiêu chuẩn cơ sở vật chất trong thực hành, thực nghiệm và thí nghiệm.
- Xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động đã được phê duyệt về giáo dục chính trị, đạo đức lối sống và văn hóa ứng xử; khởi nghiệp. Xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện Kế hoạch triển khai Khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với các trình độ giáo dục nghề nghiệp, giai đoạn 2021 - 2025. Triển khai đánh giá các trường được đầu tư để trở thành trường chất lượng cao theo các tiêu chí của trường chất lượng cao.
- Phê duyệt kế hoạch thi kỹ năng nghề năm 2022; lựa chọn thí sinh, nhóm chuyên gia và đơn vị đăng cai tổ chức huấn luyện, tham dự Tuần Lễ chuẩn bị tham dự thi kỹ năng nghề thế giới lần thứ 46; Lễ tổng kết kỳ thi kỹ năng nghề quốc gia lần thứ 12.
d) Công tác truyền thông, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp, cải cách hành chính
- Xây dựng kế hoạch triển khai chương trình chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp; hướng dẫn các địa phương và cơ sở giáo dục nghề nghiệp về triển khai chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp.
- Phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí để đẩy mạnh truyền thông về giáo dục nghề nghiệp bảo đảm kịp thời, khách quan, chính xác, trung thực.
- Hoàn thành và công bố dịch vụ công trực tuyến lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và Hệ thống đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2015.
đ) Triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia
- Xây dựng, hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu khả thi, nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương của Tiểu dự án “Phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững.
- Xây dựng, đề xuất phương án phân bổ ngân sách trung ương thực hiện Tiểu dự án 3 "Phát triển giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động vùng dân tộc thiểu số và miền núi" thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025.
- Hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu khả thi, nguyên tắc, tiêu chí phân bổ Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang phối hợp với Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, Ủy ban Dân tộc, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng Thông tư hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương trong triển khai, thực hiện Chương trình.
e) Hoạt động hợp tác quốc tế
- Hoạt động hợp tác quốc tế lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp được đẩy mạnh cả về quy mô, hiệu quả, hình thức và đa dạng hóa về nội dung. Tích cực vận động, kết nối để hình thành mạng lưới các đối tác phát triển, bao gồm các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới.
7.2. Vấn đề tình trạng người lao động bán sổ bảo hiểm xã hội
Theo quy định tại khoản 6 Điều 18 Luật Bảo hiểm xã hội thì người lao động có quyền: “Ủy quyền cho người khác nhận lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội”. Quy định này nhằm tạo thuận lợi cho người lao động trong tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội và hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật về quyền công dân. Tuy nhiên, xuất phát từ việc nhận thức của người lao động còn chưa đầy đủ, các đối tượng xấu đã lợi dụng quy định trên để tiếp cận, dụ dỗ, lôi kéo người lao động để thực hiện việc mua bán sổ bảo hiểm xã hội của người lao động với giá rẻ kèm theo giấy ủy quyền nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội để sau đó làm thủ tục thanh toán với cơ quan bảo hiểm xã hội và hưởng chênh lệch.
Trước thực trạng nêu trên, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã có ý kiến chỉ đạo: “giao các Bộ, cơ quan: Công an, Lao động - Thương binh và Xã hội, Thông tin và Truyền thông, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kịp thời cảnh báo, xử lý nghiêm các hành vi mua gom sổ bảo hiểm xã hội, siết chặt quy trình chi trả để ngăn chặn các đối tượng trục lợi” (văn bản số 2858/VPCP-NC ngày 12 tháng 4 năm 2020 của Văn phòng Chính phủ). Sau khi có chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương tình trạng thu mua sổ bảo hiểm xã hội đã từng bước được khắc phục.
Hiện nay, thực hiện nhiệm vụ Chính phủ đã giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các bộ, ngành địa phương xây dựng trình Chính phủ, Quốc hội hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), trong đó đề xuất nhiều giải pháp nhằm hạn chế hưởng bảo hiểm xã hội một lần, tăng tính hấp dẫn, thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu như: (i) giảm thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng lương hưu từ 20 năm xuống 15 năm; (ii) Bổ sung các quyền lợi, nhất là các quyền lợi ngắn hạn để gia tăng sự hấp dẫn tạo động lực cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội; (iii) Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu thu hút và tạo động lực để người lao động tham gia bảo hiểm xã hội; (iv) Củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội thông qua đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa các quy trình, thủ tục đăng ký, đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ bảo hiểm xã hội theo hướng thân thiện, công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Ngoài ra, để ngăn chặn và xử lý hành vi thu mua sổ bảo hiểm xã hội, trong hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) còn đề xuất bổ sung hành vi bị nghiêm cấm đối với hành vi mua bán sổ bảo hiểm xã hội dưới mọi hình thức.
7.3. Vấn đề tiền lương đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995
Triển khai thực hiện nội dung “Thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ” tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng 5 năm 2018 của Hội nghị Trung ương 7 Khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, trong đó có việc: quan tâm điều chỉnh thỏa đáng đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995 nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch lương hưu giữa người nghỉ hưu ở các thời kỳ, Chính phủ đã ban hành ban hành Nghị định số 108/2021/NĐ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2021 điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng, theo đó:
(i) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2022, điều chỉnh tăng thêm 7,4% trên mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng của tháng 12 năm 2021;
(ii) Riêng đối với người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng trước năm 1995 thì sau khi thực hiện điều chỉnh 7,4% mà có mức hưởng thấp hơn 2.300.000 đồng/tháng thì được điều chỉnh tăng thêm 200.000 đồng/tháng, đối với người sau điều chỉnh có mức hưởng cao hơn 2.300.000 đồng/tháng nhưng thấp hơn 2.500.000 đồng/tháng thì được điều chỉnh lên mức bằng 2.500.000 đồng/tháng.
Theo số liệu ước tính, kể từ ngày 01/01/2022, có khoảng gần 3 triệu người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng được điều chỉnh tăng thêm 7,4%, trong đó có khoảng hơn 375 nghìn người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng trước năm 1995 có mức hưởng dưới 2.300.000 đồng/tháng được điều chỉnh tăng thêm 200.000 đồng/tháng, đối với người sau điều chỉnh có mức hưởng cao hơn 2.300.000 đồng/tháng nhưng thấp hơn 2.500.000 đồng/tháng thì được điều chỉnh lên mức bằng 2.500.000 đồng/tháng.
Như vậy, thông qua việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng theo Nghị định số 108/2021/NĐ-CP đã góp phần cải thiện đời sống của người nghỉ hưu nói chung, đặc biệt Chính phủ đã có sự quan tâm hơn đối với những người có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995 theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 28-NQ/TW.
7.4. Việc triển khai chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đặt trong bối cảnh tác động của dịch COVID-19
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 kịp thời, đầy đủ, đảm bảo tính khách quan và minh bạch như việc xây dựng các tiêu chí huyện nghèo, tiêu chí xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo; xây dựng, phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025; quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025.
Đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là cơ sở pháp lý triển khai Chương trình và phân bổ vốn thực hiện Chương trình được ban hành đầy đủ.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành trung ương đang hoàn thiện để sớm ban hành các Thông tư hướng dẫn thực hiện các dự án, tiểu dự án thành phần của Chương trình đúng theo tiến độ đã được Thủ tướng Chính phủ phân công.
Nhiệm vụ trọng tâm năm 2022:
- Tập trung xây dựng thể chế, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách giảm nghèo giai đoạn 2021-2025.
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách giảm nghèo, bảo đảm đồng bộ, khắc phục chồng chéo, trùng lắp; hỗ trợ hiệu quả người nghèo, ưu tiên hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tập trung đầu tư và kết nối địa bàn nghèo, vùng lõi nghèo; đáp ứng nhu cầu của người dân về sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản phù hợp (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin và việc làm).
- Hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương thực hiện hiệu quả các chính sách, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025
- Tăng cường hiệu quả công tác vận động các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp hỗ trợ người nghèo, địa bàn nghèo, đẩy mạnh công tác truyền thông để huy động tối đa nguồn lực cho người nghèo, khơi dậy ý chí vươn lên chủ động thoát nghèo của người nghèo.
- Ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đáp ứng tốt hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ về giảm nghèo từ Trung ương đến cơ sở.
C. LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Tổng số nhiệm vụ thuộc lĩnh vực: 19 nhiệm vụ, trong đó:
1. Số nhiệm vụ có có quy định thời hạn hoàn thành: 19 nhiệm vụ (theo Kế hoạch chi tiết), trong đó:
- Hoàn thành đúng và trước thời hạn quy định: 02 nhiệm vụ.
- Hoàn thành nhưng chậm so với thời hạn quy định: 0 nhiệm vụ.
- Chưa hoàn thành so với thời hạn quy định: 0 nhiệm vụ.
- Đang thực hiện trong thời hạn quy định: 17 nhiệm vụ.
2. Số nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành: 0 nhiệm vụ.
II. Kết quả thực hiện và phương hướng thời gian tới
1. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng chiến lược tổng thể, kế hoạch triển khai của ngành giáo dục và đào tạo thích ứng với tình hình dịch bệnh COVID-19 (có lộ trình, phương án cụ thể cho học sinh, sinh viên trở lại trường học tập trung): Đây là nhiệm vụ đã hoàn thành đúng hạn.
Ngày 29/3/2022, Chính phủ chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch tổng thể của ngành Giáo dục thích ứng với tình hình dịch COVID-19 bảo đảm tổ chức dạy và học an toàn, chất lượng, với 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức các hoạt động dạy và học thích ứng an toàn với dịch COVID-19, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh, củng cố và duy trì chất lượng giáo dục và đào tạo. Kế hoạch đã phân công trách nhiệm cụ thể cho Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ sở giáo dục đại học và trường cao đẳng sư phạm trong việc tổ chức triển khai.
2. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: Đây là nhiệm vụ dài hạn.
- Trong quý I năm 2022, Chính phủ đã ban hành một số chương trình, đề án quan trọng liên quan đến ngành GDĐT, cụ thể như: Chương trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030”; Chương trình y tế trường học trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông gắn với y tế cơ sở giai đoạn 2021-2025; Đề án "Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030"; Chương trình "Nâng cao chất lượng dạy học các môn tiếng dân tộc thiểu số trong chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn 2021 - 2030"... Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành theo thẩm quyền 05 Thông tư bảo đảm thống nhất với các quy định của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và phù hợp với yêu cầu thực tiễn, nâng cao hiệu quả việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành theo thẩm quyền quyết định phê duyệt danh mục sách giáo khoa lớp 3, lớp 7, lớp 10 để thực hiện theo đúng lộ trình thực hiện đổi mới Chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông quy định tại Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã xây dựng kế hoạch và tổ chức bồi dưỡng giáo viên, chuẩn bị cơ sở vật chất để nâng cao hiệu quả thực hiện đổi mới Chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông bảo đảm theo đúng lộ trình Quốc hội giao.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch tổng thể của ngành giáo dục và đào tạo thích ứng với tình hình dịch COVID-19, bảo đảm tổ chức dạy và học an toàn, chất lượng, kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương tổ chức mở cửa trường học trở lại bảo đảm an toàn trong phòng, chống dịch COVID-19, đồng thời củng cố chất lượng, khắc phục các tác động của dịch bệnh đối với ngành Giáo dục.
- Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 11/2022/QĐ-TTg ngày 27/4/2022 về tín dụng đối với các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi dịch COVID và Quyết định số 09/2022/QĐ-TTg ngày 04/4/2022 về tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn để mua máy tính, thiết bị phục vụ học tập trực tuyến.
- Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia năm học 2021 - 2022 và Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung học đã được tổ chức thành công theo hình thức trực tuyến đảm bảo an toàn, nghiêm túc, khách quan. Các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì toàn bộ công tác tổ chức thi tại địa phương theo khung thời gian tổ chức thi do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Phương án tuyển sinh năm 2022 tiếp tục thực hiện theo Quy chế năm 2021 được xây dựng trên nguyên tắc tự chủ các trường, đảm bảo công khai quy trình đào tạo, tổ chức kiểm tra đánh giá, mở rộng chính sách tạo điều kiện để sinh viên chuyển ngành, chuyển trường, chuyển phân hiệu khi đáp ứng quy định, sinh viên đăng ký học thêm các chương trình đào tạo; thống nhất hệ thống thang đo đánh giá sinh viên, phù hợp với với chuẩn quốc tế.
- Chính phủ đang xem xét ban hành Nghị định quy định về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học. Nghị định này sau khi được ban hành sẽ làm cơ sở pháp lý cho việc phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học trong cơ sở giáo dục đại học thời gian tới.
Phương hướng, giải pháp thời gian tới:
Chính phủ tiếp tục chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức triển khai thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo bảo đảm thiết thực, hiệu quả để đạt mục tiêu theo Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra.
3. Đối với nhiệm vụ: Triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 88/2014/QH13; kiểm soát chặt chẽ chất lượng biên soạn, thẩm định sách giáo khoa: Đây là nhiệm vụ dài hạn.
- Tiếp tục triển khai bồi dưỡng, tập huấn giáo viên về các mô đun bồi dưỡng theo Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 29/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025. Việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng giáo viên theo hình thức từ giáo viên cốt cán đến giáo viên đại trà đã đảm bảo 100% giáo viên được tiếp cận với tài liệu, học liệu do các chuyên gia của các trường đại học Sư phạm biên soạn.
- Hướng dẫn các cơ sở giáo dục chủ động điều chỉnh, sắp xếp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng học, phòng thực hành sẵn có đáp ứng Chương trình giáo dục phổ thông 2018; Ban hành danh mục thiết bị dạy học tối thiểu thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (Thông tư số 37/2021/TT-BGDĐT ban hành danh mục thiết bị dạy học tối thiểu cấp tiểu học và Thông tư số 38/2021/TT-BGDĐT ban hành danh mục thiết bị dạy học tối thiểu cấp Trung học cơ sở) đầy đủ các môn học đảm bảo hỗ trợ, nâng cao chất lượng dạy học và tiết kiệm chi phí. Cơ sở vật chất cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thẩm định, phê duyệt cho phép sử dụng 40 bản mẫu sách giáo khoa lớp 7; 60 bản mẫu sách giáo khoa lớp 10; 43 bản mẫu sách giáo khoa lớp 3; 62 bản mẫu Tài liệu Giáo dục địa phương lớp 6 (đến thời điểm hiện tại). Hệ thống các sách giáo khoa sau khi được thẩm định, phê duyệt đã được đưa vào triển khai thực hiện theo đúng lộ trình và bước đầu đi vào ổn định.
- Chuẩn bị sẵn sàng tổ chức dạy lớp 3, 7, 10 theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đáp ứng lộ trình triển khai quy định tại Thông tư 32/2018 với các điều kiện cơ sở vật chất được đáp ứng.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 05/2022/TT-BGDĐT ngày 19/3/2022 sửa đổi, bổ sung 33/2017/TT-BGDĐT theo hướng tăng cường tính phù hợp của Thông tư với thực tế đã triển khai trong những năm qua; phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để ban hành các chế độ, chính sách liên quan đến triển khai Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; hướng dẫn các địa phương tổ chức lựa chọn sách giáo khoa chuẩn bị triển khai năm học 2022-2023.
- Tổ chức giám sát quá trình tuyển chọn tác giả, thực nghiệm sách giáo khoa của các tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn sách giáo khoa tại các cơ sở giáo dục theo đúng quy định đảm bảo chủ động về tiến độ chuẩn bị sách giáo khoa theo đúng lộ trình; tăng cường kiểm tra các địa phương triển khai thực hiện Chương trình GDPT 2018, kiểm tra việc tổ chức lựa chọn sách giáo khoa; lựa chọn chặt chẽ hơn các thành viên tham gia Hội đồng thẩm định, tăng cường trách nhiệm và tăng cường giám sát việc thực hiện của các hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa.
- Triển khai việc biên soạn sách giáo khoa dân tộc, đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng theo Kế hoạch đã ban hành; chỉ đạo, huy động các nguồn lực để tổ chức dịch một số sách giáo khoa được phê duyệt sang sách chữ nổi Braille; phát huy việc biên soạn sách giáo khoa điện tử, học liệu điện tử theo đúng tinh thần xã hội hóa của Nghị quyết 122/2020/QH14 của Quốc hội.
- Phối hợp với các bộ, ngành xây dựng các văn bản về định mức biên chế giáo viên. Rà soát, ban hành và triển khai đồng bộ kế hoạch bồi dưỡng; kế hoạch kiểm tra, giám sát các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục theo từng năm để kịp thời điều chỉnh, bổ sung phù hợp đảm bảo chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng.
- Các địa phương tăng cường cơ sở vật chất trường, lớp học đáp ứng điều kiện tối thiểu để thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông và lộ trình đổi mới Chương trình, sách giáo khoa. Chỉ đạo các cơ sở giáo dục phổ thông chủ động kiểm tra, rà soát và phát huy cao độ tính chủ động, tự chủ trong việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ đổi mới Chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
Phương hướng, giải pháp thời gian tới:
- Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để ban hành các chế độ, chính sách liên quan đến triển khai Chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Tăng cường hướng dẫn lựa chọn sách giáo khoa, tập huấn hướng dẫn sử dụng sách giáo khoa trong các môn học/hoạt động giáo dục tại các cơ sở giáo dục phổ thông đảm bảo linh hoạt, hiệu quả và đáp ứng mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
- Tăng cường giám sát quá trình tuyển chọn tác giả, thực nghiệm sách giáo khoa của các tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn sách giáo khoa tại các cơ sở giáo dục theo đúng quy định đảm bảo chủ động về tiến độ chuẩn bị sách giáo khoa theo đúng lộ trình; tăng cường kiểm tra các địa phương triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, kiểm tra việc tổ chức lựa chọn sách giáo khoa; lựa chọn chặt chẽ hơn các thành viên tham gia Hội đồng thẩm định, tăng cường trách nhiệm và tăng cường giám sát việc thực hiện của các hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa.
- Tiếp tục chỉ đạo triển khai việc biên soạn sách giáo khoa dân tộc, đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng theo Kế hoạch đã ban hành; chỉ đạo, huy động các nguồn lực để tổ chức dịch một số sách giáo khoa được phê duyệt sang sách chữ nổi Braille; phát huy việc biên soạn sách giáo khoa điện tử, học liệu điện tử theo đúng tinh thần xã hội hóa của Nghị quyết 122/2020/QH14 của Quốc hội.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về định mức biên chế giáo viên. Tiếp tục rà soát, ban hành và triển khai đồng bộ kế hoạch bồi dưỡng; kế hoạch kiểm tra, giám sát các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục theo từng năm để kịp thời điều chỉnh, bổ sung phù hợp đảm bảo chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng.
- Tiếp tục đôn đốc các địa phương tăng cường cơ sở vật chất trường, lớp học đáp ứng điều kiện tối thiểu để thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông và lộ trình đổi mới Chương trình, sách giáo khoa. Chỉ đạo các cơ sở giáo dục phổ thông chủ động kiểm tra, rà soát và phát huy cao độ tính chủ động, tự chủ trong việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ đổi mới Chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
4. Đối với nhiệm vụ: Chú trọng việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
- Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 11/11/2021 phê duyệt Chương trình “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng giai đoạn 2021-2030”; Quyết định số 311/QĐ-TTg ngày 05/3/2022 phê duyệt Chương trình “Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng trên không gian mạng giai đoạn 2022-2030”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch 585/QĐ-BGDĐT ngày 28/02/2022 và Kế hoạch 227/KH-BGDĐT ngày 07/3/2022 về việc triển khai Quyết định số 1895/QĐ-TTg trong ngành Giáo dục.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tích cực chỉ đạo hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh phù hợp với Chương trình Giáo dục phổ thông 2018; chú trọng giáo dục hành vi và chuẩn mực đạo đức, ý thức tuân thủ pháp luật, kỹ năng sống và giá trị sống cho học sinh. Thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá các môn học, các hoạt động giáo dục từ Tiểu học đến Trung học phổ thông theo hướng giảm áp lực cho học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh; giáo dục hài hòa đức, trí, thể, mỹ cho học sinh; chú trọng vào việc thực hành, vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã được trang bị trong quá trình học tập để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống.
Phương hướng thời gian tới:
- Tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục triển khai quy định về công tác phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội trong Luật Giáo dục 2019, văn bản chỉ đạo của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo để giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên.
- Phát huy vai trò, trách nhiệm của gia đình trong việc chăm sóc và giáo dục học sinh, sinh viên; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa cơ sở giáo dục và gia đình, cơ quan, tổ chức trên địa bàn để triển khai các biện pháp giáo dục học sinh, sinh viên; tạo điều kiện thuận lợi để học sinh, sinh viên học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ và khẳng định năng lực của bản thân.
- Tiếp tục chỉ đạo hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh phù hợp với Chương trình GDPT 2018; chú trọng giáo dục hành vi và chuẩn mực đạo đức, ý thức tuân thủ pháp luật, kỹ năng sống và giá trị sống cho học sinh thông qua các môn học và hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, rà soát, bổ sung, hoàn thiện chính sách, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
5. Đối với nhiệm vụ: Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn):
- Đối với nhiệm vụ nghiên cứu, rà soát, đánh giá các chính sách đối với học sinh vùng dân tộc thiểu số, miền núi (DTTSMN): Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa vào Chương trình công tác năm 2022 của Bộ thực hiện các nhiệm vụ: “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.”; khảo sát, đánh giá 5 năm thực hiện chính sách ưu tiên tuyển sinh, hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người.
- Đối với nhiệm vụ xây dựng các chính sách hỗ trợ học sinh vùng DTTSMN: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa vào chương trình soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quyết định cá biệt của Bộ GDĐT năm 2022, theo đó trong năm 2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản sau:
Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn (trong đó có tích hợp chính sách quy định tại Thông tư liên tịch số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT), bao gồm: chính sách hỗ trợ đối với học sinh ở vùng đồng bào DTTSMN, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo; chính sách đối với học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú, dự bị đại học; học viên người DTTS thuộc hộ nghèo ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn học tại cơ sở giáo dục thường xuyên theo chương trình giáo dục phổ thông.
Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 20/2014/NĐ-CP ngày 24/3/2014 về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ.
Xây dựng Thông tư ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc bán trú (thay thế Thông tư số 24/2010/TT-BGDĐT).
Xây dựng Thông tư ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú (thay thế Thông tư số 01/2016/TT-BGDĐT).
Phương hướng thời gian tới:
- Đối với nhiệm vụ nghiên cứu, rà soát, đánh giá các chính sách đối với học sinh vùng DTTSMN: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành kế hoạch chi tiết (Kế hoạch số 185/KH-BGDĐT ngày 28/02/2022; Kế hoạch số 193/KH-BGDĐT ngày 28/02/2022) và tổ chức triển khai thực hiện đúng tiến độ được phê duyệt. Nhiệm vụ này dự kiến hoàn thành trong năm 2022.
- Đối với nhiệm vụ xây dựng các chính sách hỗ trợ học sinh vùng DTTSMN: việc soạn thảo các văn bản nêu trên đang được triển khai thực hiện đúng tiến độ (hoàn thành việc xây dựng Kế hoạch chi tiết, thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập, đã hoàn thiện dự thảo 1 và chuẩn bị tổ chức Hội thảo xin ý kiến). Dự kiến sẽ trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền trong năm 2022.
6. Đối với nhiệm vụ: Bố trí đủ kinh phí thực hiện các chương trình, dự án, đề án đã được Quốc hội, Chính phủ phê duyệt liên quan đến chế độ, chính sách cho học sinh vùng đồng bào DTTSMN. Có giải pháp cụ thể, sớm thu hẹp khoảng cách về giáo dục giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn - thời hạn hoàn thành là tháng 8/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn):
Hàng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản hướng dẫn các địa phương, Bộ, ngành thực hiện xây dựng Kế hoạch phát triển giáo dục và dự toán NSNN, trong đó có việc Đánh giá việc thực hiện các chính sách hỗ trợ giáo dục- đào tạo năm hiện hành và xây dựng dự toán năm sau và kế hoạch 3 năm theo quy định; tổng hợp báo cáo Kế hoạch và dự toán ngân sách hàng năm của ngành, gửi các Bộ, ngành, Ủy ban theo yêu cầu. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổng hợp tổng nhu cầu kinh phí thực hiện các chế độ chính sách cho người học, trong đó có dự toán kinh phí liên quan đến chế độ, chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là 35.568 tỷ đồng.
Theo quy định của Luật NSNN, nội dung chi cấp nào, do NSNN cấp đó chi trả. Do đó thực hiện các chương trình, dự án, đề án đã được Quốc hội, Chính phủ phê duyệt liên quan đến chế độ, chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các địa phương, Bộ, ngành chủ động xây dựng kế hoạch, cân đối kinh phí thực hiện các chế độ chính sách cho người học theo quy định.
Phương hướng thời gian tới:
- Tiếp tục phối hợp với các địa phương thực hiện rà soát, sắp xếp mạng lưới các cơ sở giáo dục vùng DTTSMN, đảm bảo cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý, phù hợp với quy hoạch và điều kiện thực tế của địa phương và có lộ trình cụ thể theo nguyên tắc tạo thuận lợi cho việc học tập của học sinh, gắn với các điều kiện bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục mầm non, phổ thông; khắc phục tình trạng nhiều điểm trường lẻ, trường học có quy mô nhỏ, chất lượng giáo dục chưa cao để tập trung đầu tư nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.
- Củng cố phát triển bền vững quy mô, mạng lưới hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, dự bị đại học ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Thực hiện tốt các nhóm chính sách đã ban hành về phát triển quy mô, mạng lưới trường lớp; chính sách đối với người dạy, người học; chính sách phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số; chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, ngôn ngữ của đồng bào,... đồng thời rà soát, đề xuất điều chỉnh, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi để giúp cho các đối tượng yếu thế giảm bớt khó khăn, yên tâm học tập có thêm động lực tới trường; hỗ trợ gia đình người học giảm bớt gánh nặng về chi phí học tập; góp phần hỗ trợ thiết thực vào nâng cao tỷ lệ huy động dân số trong độ tuổi đến trường, hạn chế tình trạng bỏ học, nâng cao chất lượng giáo dục, góp phần ổn định trật tự xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.
- Triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 với mục tiêu đổi mới hoạt động, củng cố phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông có học sinh ở bán trú và xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện lồng ghép có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 để đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
- Huy động các nguồn lực của xã hội để hỗ trợ việc dạy và học trực tuyến cho học sinh vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thông qua Chương trình "Sóng và máy tính cho em" theo Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 03/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức dạy học an toàn, bảo đảm chương trình và mục tiêu chất lượng giáo dục, đào tạo ứng phó với đại dịch COVID-19 để hỗ trợ sóng và máy tính cho học sinh học trực tuyến vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đến nay, chương trình đã phủ sóng được gần 1000 điểm lõm sóng trên toàn quốc tập trung vào các địa phương bị ảnh hưởng lớn của dịch phải dạy và học trực tuyến, dự kiến sẽ phủ sóng tất cả điểm lõm sóng còn lại trong thời gian tới. Các tổ chức, đơn vị đã cam kết ủng hộ 1.000.600 máy tính, kèm theo đó là trên 01 triệu SIM di động miễn phí data trong 03 tháng của các doanh nghiệp viễn thông được giao kèm với máy để hỗ trợ việc dạy và học trực tuyến của Chương trình.
- Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 11/2022/QĐ-TTg ngày 27/4/2022 về tín dụng đối với cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
7. Đối với nhiệm vụ: Nghiên cứu, tham mưu Chính phủ ban hành các chính sách đặc thù, bảo đảm chế độ, chính sách cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, người lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non khắc phục hậu quả do dịch COVID-19 - thời hạn hoàn thành là tháng 06/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn):
- Đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập: Bộ Giáo dục và Đào tạo đang nghiên cứu, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị quyết thực hiện một số chính sách hỗ trợ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, người lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non khắc phục hậu quả do đại dịch COVID-19.
- Đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch rà soát thực trạng chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, người lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập để nắm bắt tình hình thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, người lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập. Từ đó, đề xuất các chính sách đặc thù nhằm nâng cao đời sống đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, người lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập nhằm khắc phục hậu quả do dịch COVID-19.
8. Đối với nhiệm vụ: Sớm khắc phục tình trạng thừa, thiếu giáo viên tại các địa phương, nhất là ở các tỉnh miền núi - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn):
- Năm 2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã làm việc với Bộ Nội vụ để có phương án khắc phục tình trạng thừa, thiếu giáo viên. Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết tình trạng thừa, thiếu giáo viên.
- Trên cơ sở đề xuất của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đã báo cáo và Bộ Chính trị đã cho phép xem xét bổ sung 65.980 biên chế giáo viên giai đoạn 2021-2026 (trước mắt đề xuất bổ sung 27.850 biên chế giáo viên mầm non, phổ thông năm học 2021-2022).
- Triển khai Nghị quyết số 41 của Quốc hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch rà soát công tác quản lý biên chế, tuyển dụng, sử dụng, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục để tiếp tục chỉ đạo, đôn đốc các địa phương thực hiện tốt các quy định về công tác tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, tinh giản biên chế ngành giáo dục và khắc phục tình trạng thừa, thiếu giáo viên, nhất là các tỉnh miền núi.
Phương hướng thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch rà soát công tác quản lý biên chế, tuyển dụng, sử dụng, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục bảo đảm hiệu quả, đúng thời hạn.
9. Đối với nhiệm vụ: Rà soát, đánh giá hiệu quả học tập trực tuyến, học tập qua truyền hình của các nhóm đối tượng học sinh, sinh viên, nhất là học sinh tiểu học; có giải pháp bảo đảm chất lượng, bổ sung kiến thức cho học sinh khi trở lại trường học: Đây là nhiệm vụ đã hoàn thành đúng hạn.
- Đối với giáo dục phổ thông: Từ ngày 24/02/2022 đến ngày 28/02/2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức khảo sát đánh giá quá trình tổ chức dạy học trực tuyến với 5.175 cán bộ quản lý, 95.359 giáo viên và 341.830 học sinh của các tỉnh tổ chức dạy học trực tuyến và qua truyền hình của các cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông của đại diện những nơi có điều kiện tổ chức dạy học trực tuyến và dạy học trên truyền hình trên cả nước.
- Đối với giáo dục đại học: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số 208/KH-BGDĐT ngày 02/3/2022 thực hiện nhiệm vụ rà soát, đánh giá hiệu quả học tập trực tuyến đối với giáo dục đại học; thành lập Tổ công tác triển khai khảo sát trực tuyến đối với các cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm trên toàn quốc bao gồm: Nghiên cứu, xây dựng phiếu khảo sát và công cụ thu thập dữ liệu khảo sát trực tuyến; gửi công văn đến các cơ sở đào tạo đề nghị triển khai thực hiện; thu thập, phân tích số liệu báo cáo, khảo sát từ các đối tượng có liên như cơ sở đào tạo, giảng viên, người học; khảo sát thực tế, đánh giá hiệu quả tại một số cơ sở giáo dục đại học đại diện các vùng, miền trên các đối tượng sinh viên về hiệu quả thực hiện tổ chức dạy học trực tuyến.
Phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới:
- Tổ chức triển khai dạy học trực tiếp trong tình hình mới
Chú trọng công tác tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho học sinh; tăng cường sự tương tác, gắn kết giữa các học sinh trong lớp học. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục đặc biệt quan tâm với các em học sinh lớp 1 chưa từng tới trường, nhà trường cần: phổ biến các quy định về học tập và sinh hoạt tại trường; tổ chức các hoạt động để tạo hứng thú và trạng thái thoải mái cho học sinh tới trường; hướng dẫn học sinh kiến thức phòng dịch, những việc cần làm và nguyên tắc cần tuân thủ trong phòng dịch để bảo vệ bản thân và cộng đồng; tổ chức tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho học sinh; tăng cường sự tương tác, gắn kết giữa các học sinh trong lớp học; tuyệt đối không được để xảy ra việc kỳ thị đối với các trường hợp không may bị F0.
Tiếp tục tổ chức dạy học tại trường các nội dung cơ bản, cốt lõi theo các văn bản hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học, không gây áp lực, quá tải đối với học sinh; tổ chức ôn tập, củng cố, bổ sung nội dung kiến thức phù hợp với các nhóm đối tượng học sinh có điều kiện học trực tuyến khác nhau ngay trong nội dung dạy học chính khóa, nhất là đối với các học sinh không được học qua truyền hình, học sinh chuyển trường do phải di chuyển nơi cư trú để phòng, tránh dịch bệnh.
- Đảm bảo chất lượng giáo dục
Đối với giáo dục mầm non: tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn phụ huynh thực hiện chế độ dinh dưỡng khoa học, hợp lý và tổ chức cho trẻ em mầm non hoạt động vui chơi tại nhà; xây dựng kho tài liệu, học liệu trực tuyến hướng dẫn nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em mầm non. Khi đi học trực tiếp trở lại thì hướng dẫn các biện pháp đảm bảo an toàn cho học sinh và giáo viên trong phòng chống dịch.
Đối với giáo dục phổ thông: tiếp tục hỗ trợ điều kiện kỹ thuật, ban hành khung định mức tài chính cho các hoạt động giáo dục của giáo viên khi thực hiện giảng dạy trực tuyến. Chủ động rà soát, đánh giá, phân loại kết quả học tập trực tuyến, qua truyền hình của các nhóm đối tượng học sinh để điều chỉnh kế hoạch giáo dục của nhà trường phù hợp điều kiện thực tế và tình hình kiểm soát dịch COVID-19 tại địa phương. Việc kiểm tra, đánh giá định kì theo hình thức trực tiếp tại trường cần được thực hiện sau một thời gian học sinh đã được ôn tập, củng cố, bổ sung nội dung kiến thức.
Đối với giáo dục đại học: tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch số 208/KH-BGDĐT ngày 02/3/2022 thực hiện nhiệm vụ rà soát, đánh giá hiệu quả học tập trực tuyến đối với giáo dục đại học bảo đảm thiết thực, hiệu quả.
- Đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị, hạ tầng công nghệ thông tin
Tăng cường triển khai hoạt động quản lý ngành trên mạng như: Hoàn thiện cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông; tích hợp các hệ thống thông tin quản lý ngành hiện có vào cơ sở dữ liệu ngành; xây dựng và triển khai các phần mềm quản lý, kết nối liên thông dữ liệu với phần mềm cơ sở dữ liệu ngành; tăng cường triển khai giải pháp tuyển sinh trực tuyến đầu cấp học và sử dụng hồ sơ điện tử (sổ điểm, học bạ, ……).
Phủ sóng cho toàn bộ các điểm lõm sóng phục vụ học tập trực tuyến (hiện các doanh nghiệp số và nhà mạng ký cam kết và đã thực hiện phủ các vùng lõm sóng trong năm 2021); cung cấp các nền tảng phần mềm dạy học trực tuyến (hiện đã huy động các doanh nghiệp cung cấp miễn phí tên miền giáo dục, nền tảng dạy học trực tuyến).
10. Đối với nhiệm vụ: Phối hợp với Bộ Y tế và các địa phương nghiên cứu, sớm triển khai chương trình tiêm vắc xin phòng, chống COVID-19 cho học sinh; thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn trường học, hệ thống y tế trường học - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
- Tổ chức thành công chiến dịch tiêm vắc-xin phòng dịch cho người học theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Các địa phương tích cực triển khai chương trình tiêm vắc xin phòng, chống COVID-19 cho học sinh từ 12-17 tuổi. Kết quả tiêm đến thời điểm hiện tại: mũi 1 đạt 98,4% học sinh, mũi 2 đạt 94,1% học sinh và đang tiếp tục được triển khai tại các địa phương;
- Ban hành Công văn số 892/BGDĐT-GDTC ngày 14/3/2022 về việc hướng dẫn thực hiện phối hợp tiêm vắc xin cho trẻ em, học sinh từ 5 đến dưới 12 tuổi và cập nhật, báo cáo thông tin.
- Ban hành Công điện gửi Giám đốc các Sở Giáo dục và Đào tạo về một số lưu ý khi học sinh trở lại trường học trực tiếp. Trong đó, yêu cầu Giám đốc các Sở Giáo dục và Đào tạo tham mưu Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo tổ chức dạy học trực tiếp tại địa phương thống nhất, đầy đủ tạo thuận lợi cho phụ huynh trong việc đưa đón, chăm sóc học sinh; đồng thời chỉ đạo các cơ sở giáo dục tiếp tục triển khai thực hiện các hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Tổ chức kiểm tra hoạt động dạy học trực tiếp đảm bảo an toàn phòng chống, dịch tại một số địa phương nhằm đánh giá tình hình tổ chức hoạt động dạy học trực tiếp tại các cơ sở giáo dục theo Nghị quyết 128/NQ-CP của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, phòng chống dịch COVID-19 hiệu quả; đồng thời thúc đẩy việc mở cửa trường học an toàn tại các địa phương. Qua các cuộc kiểm tra có thể khẳng định, được đi học trở lại là mong muốn rất lớn của học sinh, giáo viên, các cấp quản lý; đồng thời các địa phương cũng đã quan tâm, chủ động xây dựng kịch bản, lộ trình, tổ chức diễn tập, chuẩn bị các điều kiện với quyết tâm đưa học sinh trở lại trường học tập.
- Triển khai hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe, phòng, chống dịch bệnh cho cán bộ, giáo viên và phụ huynh học sinh; phối hợp chặt chẽ với gia đình theo dõi, quản lý sức khỏe của người học để phòng ngừa, phát hiện sớm các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh nhằm xử lý, ngăn chặn kịp thời; ban hành các văn bản tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn trường học, kiện toàn và nâng cao năng lực hệ thống y tế trường học: phê duyệt Sổ tay đảm bảo an toàn phòng, chống dịch COVID-19 trong trường học (sửa đổi, bổ sung lần 2) nhằm đảm bảo an toàn khi tổ chức hoạt động giáo dục, đào tạo trực tiếp tại các cơ sở giáo dục phù hợp với tình hình dịch COVID-19 và góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh, duy trì việc dạy và học trong các cơ sở giáo dục. Chỉ đạo triển khai Chương trình “Y tế trường học trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông gắn với y tế cơ sở” nhằm củng cố, kiện toàn hệ thống y tế trường học, đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch trong trường học.
Phương hướng thời gian tới:
- Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Y tế xây dựng kế hoạch chuẩn bị triển khai tiêm vắc xin phòng, chống COVID-19 cho trẻ em mầm non và học sinh từ 5 đến dưới 12 tuổi, tổ chức tập huấn trực tuyến về việc xử trí các trường hợp F0 và điều trị bệnh nhân COVID-19 là trẻ em, học sinh cho ngành Y tế và ngành Giáo dục trên toàn quốc.
- Tổ chức kiểm tra hoạt động dạy học trực tiếp đảm bảo an toàn phòng chống, dịch tại một số địa phương nhằm đánh giá tình hình tổ chức hoạt động dạy học trực tiếp tại các cơ sở giáo dục theo Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, phòng chống dịch COVID-19 hiệu quả.
- Triển khai hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe, phòng, chống dịch bệnh cho cán bộ, giáo viên và phụ huynh học sinh; phối hợp chặt chẽ với gia đình theo dõi, quản lý sức khỏe của người học để phòng ngừa, phát hiện sớm các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh nhằm xử lý, ngăn chặn kịp thời; kiện toàn và nâng cao năng lực hệ thống y tế trường học nhằm đảm bảo an toàn khi tổ chức hoạt động giáo dục, đào tạo trực tiếp tại các cơ sở giáo dục phù hợp với tình hình dịch COVID-19 và góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh, duy trì việc dạy và học trong các cơ sở giáo dục. Tiếp tục chỉ đạo triển khai Chương trình “Y tế trường học trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông gắn với y tế cơ sở” nhằm củng cố, kiện toàn hệ thống y tế trường học, đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch trong trường học.
11. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục rút kinh nghiệm tổ chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông, hoàn thiện phương án tổ chức thi cho năm 2022, bảo đảm an toàn, chất lượng, phù hợp với tình hình dịch bệnh. Tăng cường phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước và trách nhiệm triển khai của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các địa phương trong công tác tổ chức thi - thời hạn hoàn thành là tháng 6/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
Kế thừa các kết quả đạt được trong công tác tổ chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) các năm 2020 và 2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định phương án tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022 với một số nội dung chính như sau:
- Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022 được tổ chức cơ bản giữ ổn định như năm 2021. Các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) chủ trì toàn bộ công tác tổ chức thi tại địa phương theo khung thời gian tổ chức thi do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Thời gian tổ chức Kỳ thi tại các tỉnh có thể được xem xét điều chỉnh phù hợp với tình hình dịch bệnh tại địa phương.
- Nội dung thi nằm trong chương trình giáo dục THPT hiện hành, chủ yếu là chương trình lớp 12; không bao gồm các nội dung được tinh giản đi nhằm phục vụ dạy và học ứng phó dịch COVID-19 mà Bộ GDĐT đã công bố; đề thi được xây dựng đáp ứng yêu cầu của Kỳ thi, bảo đảm độ phân hóa phù hợp và hạn chế học tủ, học lệch, khuyến khích sáng tạo của thí sinh.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các địa phương tổ chức thanh tra, kiểm tra tất cả các khâu của Kỳ thi để bảo đảm an toàn, nghiêm túc, thiết thực, khách quan, công bằng.
Phương hướng thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến tổ chức kỳ thi vào đầu tháng 7/2022. Đến thời điểm này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện những nhiệm vụ cụ thể để chuẩn bị tổ chức Kỳ thi: công bố đề thi tham khảo vào ngày 31/3/2022; rà soát hoàn thiện ngân hàng câu hỏi thi; rà soát và nâng cấp phần mềm quản lý thi tốt nghiệp THPT; chuẩn bị công tác tập huấn tổ chức thi vào tháng 4/2022.
12. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục rút kinh nghiệm tổ chức tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2021, hoàn thiện phương án tổ chức tuyển sinh cho năm 2022, bảo đảm an toàn, chất lượng, phù hợp với tình hình dịch bệnh. Tăng cường phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước và trách nhiệm triển khai của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ sở giáo dục trong công tác tuyển sinh, đào tạo - thời hạn hoàn thành là tháng 6/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
Kế thừa các kết quả đạt được trong công tác tổ chức tuyển sinh các năm 2020 và 2021, Bộ Giáo dục vả Đào tạo quyết định phương án tổ chức tuyển sinh năm 2022 cơ bản giữ ổn định như năm 2021. Tuy nhiên, sẽ có một số nội dung dự kiến điều chỉnh để áp dụng trong công tác tuyển sinh năm 2022, cụ thể:
- Việc đăng ký dự thi Kỳ thi tốt nghiệp THPT và xét tuyển ĐH, CĐ phải thực hiện trên Cổng thông tin của Bộ GDĐT và Cổng dịch vụ công quốc gia;
- Thí sinh đăng ký xét tuyển đợt 1: Tất cả các nguyện vọng xét tuyển (theo các ngành, các phương thức, cơ sở đào tạo) được đăng ký xét tuyển trực tuyến sau khi kết thúc Kỳ thi tốt nghiệp THPT, các nguyện vọng được xếp thứ tự từ 1 đến hết (nguyện vọng 1 là nguyện vọng ưu tiên cao nhất của thí sinh);
- Tất cả các nguyện vọng ĐKXT của thí sinh vào các cơ sở đào tạo được lọc ảo chung trên hệ thống và thí sinh trúng tuyển ở nguyện vọng cao nhất khi đáp ứng điều kiện của cơ sở đào tạo;
- Đối với những ngành sử dụng đồng thời nhiều phương thức xét tuyển, nhiều tổ hợp môn thi, các trường phải giải trình được sự phù hợp của sự lựa chọn này, đảm bảo sự công bằng cho thí sinh. Nếu mỗi phương thức (hoặc mỗi tổ hợp môn thi) có chỉ tiêu riêng thì đề án tuyển sinh của các trường phải giải trình được căn cứ phù hợp cho việc phân chỉ tiêu cho từng phương thức (hoặc tổ hợp môn thi);
- Các trường xác định chỉ tiêu cho phương thức, tổ hợp xét tuyển mới phải có căn cứ và lộ trình; các trường khi bỏ đi phương thức tuyển sinh cũng cũng cần có lộ trình, việc giảm chỉ tiêu hàng năm cần thông báo để không ảnh hưởng tới việc học tập, ôn tập của thí sinh; vi) Các địa phương cập nhật kết quả học tập (lớp 10, lớp 11, lớp 12) lên cơ sở dữ liệu ngành, đồng thời kiểm tra rà soát dữ liệu này sau khi được đồng bộ sang hệ thống quản lý thi và xét tuyển phục vụ công tác tuyển sinh của các cơ sở giáo dục đại học, các trường cao đẳng sư phạm;
- Cơ sở đào tạo chịu trách nhiệm giải trình các tình huống có thể phát sinh, rủi ro và phương án giải quyết, phối hợp giải quyết giữa các cơ sở đào tạo trong quá trình tuyển sinh.
Ngày 18/3/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế đào tạo trình độ đại học kèm Thông tư số 08/2021/TT-BGDĐT áp dụng từ khóa tuyển sinh năm 2021-2022. Quy chế được xây dựng trên nguyên tắc tự chủ các trường, đảm bảo công khai quy trình đào tạo, tổ chức kiểm tra đánh giá, mở rộng chính sách tạo điều kiện để sinh viên chuyển ngành, chuyển trường, chuyển phân hiệu khi đáp ứng quy định, sinh viên đăng ký học thêm các chương trình đào tạo; thống nhất hệ thống thang đo đánh giá sinh viên, phù hợp với với chuẩn quốc tế.
Phương hướng thời gian tới:
Các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng sư phạm thực hiện quyền tự chủ trong tuyển sinh theo quy định của pháp luật và quy chế, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo; thực hiện công tác tuyển sinh theo đề án tuyển sinh của trường, bảo đảm công bằng cho các nhóm đối tượng và các phương thức tuyển sinh; khuyến cáo những trường đại học, ngành học có mức độ cạnh tranh cao chỉ sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT làm công cụ sàng lọc, sơ tuyển, sau đó, cần có thêm các hình thức chọn lọc bổ sung nhằm phân loại tốt hơn đối tượng tuyển chọn.
Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện công tác tuyển sinh của các cơ sở giáo dục đại học bảo đảm khách quan, công bằng; phát hiện, xử lý những trường hợp sai phạm nếu có.
13. Đối với nhiệm vụ: Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo trong cơ sở giáo dục đại học - thời hạn hoàn thành là tháng 10/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học (trực thuộc) tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, giảng viên, người học về nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, thực hiện chức năng nhiệm vụ về nghiên cứu khoa học của giảng viên, của chính cơ sở giáo dục đại học. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nghiên cứu đề xuất các chính sách đẩy mạnh khoa học, công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) trong cơ sở giáo dục đại học, nổi bật là chính sách thúc đẩy tự chủ đại học về khoa học và công nghệ, các chỉ đạo, định hướng đối với cơ sở giáo dục đại học trong KHCN và ĐMST, cụ thể:
- Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển KHCN và ĐMST của cơ sở cho từng giai đoạn và hằng năm.
- Có chính sách đẩy mạnh công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế uy tín.
- Phát triển hợp tác quốc tế về nghiên cứu, gắn kết chặt chẽ giữa hợp tác nghiên cứu với đào tạo nhân lực chất lượng cao.
- Chủ động tìm kiếm và phát triển các hình thức hợp tác với khu vực doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, gắn với nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Huy động các nguồn lực để đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu trình độ cao.
- Huy động và dành nguồn lực phát triển hạ tầng nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo của cơ sở giáo dục đại học như các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu, tạp chí khoa học, trung tâm khởi nghiệp sáng tạo, dịch vụ KHCN, ...
Phương hướng thời gian tới:
Trong năm 2022, các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc tổ chức thực hiện tốt kế hoạch KHCN&ĐMST đã được phê duyệt, đề xuất, xây dựng kế hoạch KHCN&ĐMST năm 2023 đúng tiến độ, khoa học và khả thi để tận dụng tối đa nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, đồng thời phát huy tự chủ, liên kết với khu vực doanh nghiệp, hợp tác quốc tế để thực hiện nghiên cứu, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học trong năm 2022 làm cơ sở pháp lý cho việc phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo trong cơ sở giáo dục đại học thời gian tới.
14. Đối với nhiệm vụ: Có giải pháp hiệu quả hỗ trợ việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
Nhiệm vụ được triển khai thành 02 hoạt động gồm: i) Tổ chức hội thảo, tọa đàm để chia sẻ kinh nghiệm, thống nhất mô hình triển khai; ii) Khảo sát đánh giá tình trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp. Mỗi hoạt động Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao cụ thể đơn vị chủ trì và thời hạn hoàn thành để tổ chức thực hiện và theo dõi, đôn đốc. Đây là nhiệm vụ mang chiến lược dài hơi và cần có chính sách phù hợp giữa đào tạo và nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực.
Phương hướng thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai hoạt động “Khảo sát đánh giá tình trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp” và Hoạt động “Tổ chức hội thảo, tọa đàm chia sẻ kinh nghiệm, thống nhất mô hình triển khai thực hiện, dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2022. Trên cơ sở kết quả của các hoạt động này, Bộ Giáo dục và Đào tạo tham mưu cơ quan có thẩm quyền xem xét, để có chính sách tương ứng nhằm giải quyết việc làm cho sinh viên và đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội.
15. Đối với nhiệm vụ: Rà soát, đẩy mạnh việc đổi mới, sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; sắp xếp hợp lý các đầu mối, trường, lớp, bảo đảm chất lượng, số lượng giáo viên, cán bộ quản lý theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2025 (đây là nhiệm vụ dài hạn)
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo, hướng dẫn địa phương tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Các địa phương đã chủ động thực hiện rà soát, đánh giá thực trạng các điểm trường, các trường có quy mô nhỏ; xây dựng lộ trình cụ thể, phù hợp để triển khai sắp xếp các trường và bố trí số lượng học sinh/lớp theo quy định đảm bảo nguyên tắc tạo thuận lợi cho người dân, quyền lợi học tập của học sinh; phù hợp với quy hoạch, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, gắn với mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Phương hướng thời gian tới:
Trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các địa phương nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và thường xuyên đạt hiệu quả.
16. Đối với nhiệm vụ: Tiến hành rà soát, đẩy mạnh việc đổi mới, sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
- Về việc sắp xếp, tổ chức lại các trường dự bị đại học, hữu nghị, phổ thông vùng cao: Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai, rà soát và phối hợp với Ủy ban Dân tộc để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc chuyển 07 trường, gồm: Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương, Trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn, Trường Dự bị Đại học Dân tộc Nha Trang, Trường Dự bị Đại học Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Hữu Nghị T78, Trường Hữu Nghị 80 và Trường Phổ thông vùng cao Việt Bắc về trực thuộc Ủy ban Dân tộc. Thời gian thực hiện: giai đoạn 2021 - 2023.
- Về các đơn vị sự nghiệp công lập khoa học - công nghệ: đang nghiên cứu chuyển Viện Nghiên cứu Thiết kế trường học thành công ty cổ phần theo quy định của pháp luật. Thời gian thực hiện: giai đoạn 2022 - 2025.
- Về tổ chức lại Trường Cán bộ quản lý giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh thành Phân hiệu của Học viện Quản lý giáo dục tại Thành phố Hồ Chí Minh: đang rà soát, triển khai. Thời gian thực hiện: giai đoạn 2022 - 2025.
- Về chuyển Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và Cung ứng nhân lực về trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam: đang rà soát, triển khai. Thời gian thực hiện trong năm 2022.
Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hoàn thiện dự thảo Nghị định để trình Chính phủ xem xét ban hành thay thế Nghị định số 69/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu chức của Bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo
Phương hướng thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục phối hợp với Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 69/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo để trình Chính phủ xem xét, ban hành trong năm 2022.
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 69/2017/NĐ-CP, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về danh sách các đơn vị sự nghiệp lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo (thay thế Quyết định số 960/QĐ-TTg ngày 06/8/2018) trên cơ sở rà soát, sắp xếp tổ chức lại các đơn vị theo Quyết định số 1292/QĐ-TTg.
17. Đối với nhiệm vụ: Tăng cường quản lý các cơ sở giáo dục đại học công lập đã tự chủ tài chính - thời hạn hoàn thành là tháng 8/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Công văn số 747/BGDĐT-KHTC ngày 07/3/2022 tăng cường công tác quản lý tài chính, tài sản tại các đơn vị thuộc và trực thuộc, trong đó nhấn mạnh tăng cường thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, đặc biệt đối với các cơ sở GDĐH đã được giao tự chủ chi thường xuyên và chi đầu tư phải tự cân đối chi thường xuyên từ các nguồn thu hợp pháp, ngân sách nhà nước không hỗ trợ kinh phí chi thường xuyên, chỉ cấp kinh phí không thường xuyên theo các nhiệm vụ nhà nước giao, đặt hàng, đấu thầu. Nếu áp dụng cơ chế tự chủ tài chính theo quy định tại Nghị định 60/2021/NĐ-CP thì thực hiện đúng các quy định tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP về quản lý thu chi tài chính, cơ chế trả lương, thu nhập tăng thêm và quy định trích lập, quản lý và sử dụng các quỹ,... Nếu tiếp tục thực hiện theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì phải thực hiện thu chi tài chính, cơ chế tiền lương, đầu tư mua sắm,... theo đúng đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đồng thời đảm bảo tuân thủ đúng Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Đầu tư công,...
Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã thông báo Kế hoạch thẩm tra, xét duyệt quyết toán ngân sách năm 2021 (bao gồm các nội dung kiểm tra về việc thực hiện các quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính của các cơ sở GDĐH tự chủ chi thường xuyên, chi đầu tư) tại Công văn số 680/BGDĐT-KHTC ngày 03/3/2022; tăng cường kiểm tra công tác đấu thầu, giám sát, đánh giá đầu tư dự án, tình hình thực hiện chính sách hỗ trợ đóng học phí và sinh hoạt phí cho sinh viên sư phạm tại Trường ĐH Luật TP.HCM, Trường ĐH Cần Thơ, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội tại Quyết định số 4837/QĐ-BGDĐT ngày 23/12/2021.
18. Đối với nhiệm vụ: Tăng cường thanh tra, kiểm tra, nhất là đối với hoạt động dạy thêm, học thêm - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
- Ngày 18/02/2022, Ban Cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo có Thông báo số 17-TB/BCSĐ về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực giáo dục.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Công văn số 623/BGDĐT-TTr ngày 28/02/2022 về việc tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Tại văn bản này, ngoài việc quán triệt thực hiện các văn bản, quy định liên quan, Bộ GDĐT đã yêu cầu các Sở Giáo dục và Đào tạo tập trung thanh tra, kiểm tra 06 nhóm nội dung trọng tâm.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Công văn số 624/BGDĐT-TTr ngày 28/02/2022 về việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ trong cơ sở giáo dục đại học trong đó đã chỉ rõ 06 nhóm nội dung có thiếu sót, vi phạm trong hoạt động tự chủ của cơ sở giáo dục đại học; đồng thời yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học tập trung công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ, trong đó chú trọng 05 nhóm nội dung trọng tâm. Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo triển khai đúng thời hạn các cuộc thanh tra, kiểm tra trong kế hoạch thanh tra, kế hoạch kiểm tra năm 2022 với tổng số 10 cuộc thanh tra; 43 cuộc kiểm tra, bảo đảm chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra.
- Tiến hành bổ sung nội dung kiểm tra hoạt động dạy thêm, học thêm và việc tổ chức lựa chọn sách giáo khoa trong cơ sở giáo dục phổ thông vào các cuộc kiểm tra khối sở giáo dục và đào tạo trong kế hoạch kiểm tra năm 2022.
- Điều chỉnh, bổ sung nội dung kiểm tra hoạt động dạy thêm, học thêm và việc tổ chức lựa chọn sách giáo khoa trong cơ sở giáo dục phổ thông vào cuộc kiểm tra tại Sở GDĐT Bắc Ninh và Sở GDĐT Hải Dương .
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai: 01 cuộc thanh tra trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của UBND tỉnh Quảng Ninh; 01 cuộc thanh tra đột xuất chuyên đề mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế, sinh phẩm, kít xét nghiệm, vắc xin, thuốc phòng, chống dịch COVID-19 đối với Trường ĐH Y-Dược - ĐH Huế; 02 cuộc kiểm tra đối với 02 sở GDĐT; 04 cuộc kiểm tra về công tác tuyển sinh trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, việc thành lập và hoạt động của hội đồng trường và điều kiện đảm bảo chất lượng đối với 05 cơ sở giáo dục đại học. Các cuộc thanh tra, kiểm tra đã kết thúc kiểm tra tại các đơn vị và đang hoàn thiện Thông báo kết quả kiểm tra.
Phương hướng, giải pháp trong thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực hiện các văn bản, kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm 2021, trong đó có nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 41; theo dõi, đôn đốc, các sở GDĐT, các cơ sở giáo dục đại học nghiêm túc triển khai nhiệm vụ và báo cáo kết quả thực hiện theo đúng quy định.
19. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tự chủ cho các trường đại học, định hướng phát triển các trường đại học, cao đẳng sư phạm. Tăng cường quản lý việc mở ngành đào tạo khối sức khỏe của các trường đại học - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
a) Về nội dung tiếp tục hoàn thiện cơ chế tự chủ cho các trường đại học
Triển khai tự chủ đại học là việc thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã được thể chế hóa trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đối với GDĐH. Có thể nói, tự chủ đại học đã góp phần đổi mới hệ thống GDĐH Việt Nam, cũng như tạo động lực để hệ thống GDĐH và các cơ sở GDĐH phát triển, một số cơ sở GDĐH phát triển vượt bậc trong giai đoạn 2016 - 2021. Điều này được thể hiện ở việc lần đầu tiên Việt Nam có các trường đại học nằm trong các bảng xếp hạng những trường đại học hàng đầu thế giới, trong số này, phần lớn là các trường đại học thực hiện theo cơ chế tự chủ và có cả trường đại học tư thục là Trường Đại học Duy Tân.
Phương hướng thời gian tới:
Để tiếp tục đẩy mạnh triển khai tự chủ đại học, bên cạnh việc cần đẩy mạnh công tác truyền thông về tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH trong toàn xã hội để nâng cao và thống nhất nhận thức về tự chủ đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục hoàn thiện cơ chế tự chủ cho các trường đại học:
- Rà soát các nhóm vấn đề bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo, khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện Luật Giáo dục đại học và đề xuất các giải pháp, phương án xử lý, khắc phục, hoàn thiện hành lang pháp lý, như: trình các cấp có thẩm quyền ban hành các quy định về đào tạo liên thông, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, ban hành theo thẩm quyền các chuẩn chương trình đào tạo cho các khối ngành, chuẩn cơ sở GDĐH; hoàn thiện các quy định, yêu cầu về công khai các điều kiện đảm bảo chất lượng và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH trong bối cảnh thực hiện tự chủ đại học;...
- Triển khai lập quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050;
- Xây dựng báo cáo tham chiếu khung trình độ quốc gia Việt Nam với khung trình độ các nước ASEAN;
- Tăng cường kiểm định chất lượng, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm, công khai kết quả kiểm định, danh sách các trường vi phạm để xã hội giám sát, người học lựa chọn, tạo động lực để các trường tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.
b) Về nội dung định hướng phát triển các trường đại học, cao đẳng sư phạm
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 209/QĐ-TTg ngày 17/02/2021 phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 với một trong những mục tiêu trọng tâm là: “Quy hoạch để rà soát, sắp xếp lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm bảo đảm hợp lý về quy mô, cơ cấu ngành nghề và phân bố vùng miền, đáp ứng nhu cầu nhân lực phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của các địa phương”.
Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung huy động các nguồn lực để hoàn thiện Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH và sư phạm, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt trong Quý IV năm 2022.
c) Về nội dung tăng cường quản lý việc mở ngành đào tạo khối sức khỏe của các trường đại học
Ngày 18/01/2022 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 02/2022/TT-BGDĐT quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo, đình chỉ hoạt động của ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ (Thông tư 02), trong đó, quyết định cho phép mở ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe đã được quy định, bổ sung để đảm bảo kiểm soát các điều kiện đảm bảo chất lượng chặt chẽ hơn các quy định trước đó, cụ thể như sau:
- Quy định giảng viên và người hướng dẫn thực hành các môn học, học phần liên quan đến khám, chữa bệnh phải có chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, đã hoặc đang làm việc trực tiếp tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đủ điều kiện là cơ sở thực hành trong đào tạo ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe theo quy định của Chính phủ về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo khối ngành sức khỏe;
- Có hợp đồng hợp tác đào tạo thực hành, thực tập với các cơ sở thực hành, thực tập bên ngoài nhà trường phù hợp với kế hoạch giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học cho toàn khóa học;
- Các cơ sở thực hành đối với ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe phải có hợp đồng nguyên tắc về đào tạo thực hành bảo đảm tuân thủ theo quy định của Chính phủ về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo khối ngành sức khỏe;
- Riêng đối với các ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe phải đáp ứng đầy đủ điều kiện về đội ngũ giảng viên để thực hiện chương trình đào tạo cho toàn bộ khóa học tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị mở ngành đào tạo;
- Điều kiện về cơ sở vật chất đối với các ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe phải đáp ứng đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất cho toàn bộ khóa học tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị mở ngành đào tạo; đáp ứng các điều kiện cụ thể về phòng thí nghiệm, thực hành đối với từng ngành đào tạo theo quy định;
- Có đủ hợp đồng nguyên tắc về đào tạo thực hành theo quy định của Chính phủ về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo khối ngành sức khỏe;
- Đối với các đại học: cần có công văn của đại học chấp thuận về mặt chủ trương đối với các đơn vị thành viên thuộc đại học khi mở ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe; Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp nhận và thẩm định hồ sơ; trong trường hợp cần thiết Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định việc tổ chức đoàn kiểm tra thực tế các điều kiện bảo đảm chất lượng tại cơ sở đào tạo.
- Riêng đối với mở ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe, Bộ GDĐT lấy ý kiến (bằng văn bản) của Bộ Y tế về nhu cầu nhân lực ngành đề xuất mở và các điều kiện về tổ chức đào tạo thực hành trong khối ngành sức khỏe theo quy định của Chính phủ.
Phương hướng thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tổ chức thực hiện và tăng kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc triển khai thực hiện mở ngành bảo đảm theo quy định tại Thông tư 02 nêu trên, trên cơ sở tiếp thu đầy đủ các ý kiến góp ý, bổ sung của các bộ, ngành có liên quan và đặc biệt là ý kiến đóng góp của Bộ Y tế để đảm bảo và tăng cường kiểm soát chất lượng trong công tác mở các ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe.
D. LĨNH VỰC KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
1. Tổng số nhiệm vụ thuộc lĩnh vực: 16 nhiệm vụ; trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao chủ trì thực hiện 10 nhiệm vụ, Bộ Tư pháp chủ trì 01 nhiệm vụ và 05 nhiệm vụ giao chung các bộ, ngành và địa phương thực hiện.
2. Tiến độ thực hiện 10 nhiệm vụ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện như sau:
Số nhiệm vụ có quy định thời hạn hoàn thành: 10/10 nhiệm vụ; trong đó:
- Hoàn thành đúng và trước thời hạn quy định: 04 nhiệm vụ.
- Chưa hoàn thành so với thời hạn quy định: 02 nhiệm vụ.
- Đang thực hiện trong thời hạn quy định: 04 nhiệm vụ.
II. Kết quả thực hiện và phương hướng trong thời gian tới
1. Đối với nhiệm vụ: Khẩn trương xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, ban hành và triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, gắn với nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế, kế hoạch tài chính, kế hoạch đầu tư công trung hạn, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025
- Căn cứ Kết luận số 24-KL/TW ngày 30/12/2021 của Bộ Chính trị, các Nghị quyết số 43/2022/QH15 và số 46/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội, trên cơ sở các chính sách, nhiệm vụ giải pháp chủ yếu được nêu tại Báo cáo số 01/BC-CP ngày 02/01/2022 của Chính phủ, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội (sau đây viết tắt là Chương trình).
- Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP, Thủ tướng Chính phủ đã liên tục có các Công điện số: 126/CĐ-TTg ngày 12/02/2022, 252/CĐ-TTg ngày 12/02/2022 và 290/CĐ-TTg ngày 31/03/2022 đôn đốc các bộ, cơ quan trung ương và địa phương bảo đảm tiến độ công việc được giao.
Về kết quả thực hiện Chương trình: Nhìn chung, các bộ, cơ quan và địa phương đã tích cực, khẩn trương triển khai công việc được giao; đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành, hoặc báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo một số nội dung cụ thể về văn bản pháp luật để triển khai nhiều chính sách thuộc Chương trình như: quyết định về hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động; nghị định về hỗ trợ lãi suất cho vay thông qua các ngân hàng thương mại; các quyết định về hỗ trợ lãi suất, phê duyệt hạn mức bảo lãnh phát hành trái phiếu và giao bổ sung kế hoạch tín dụng năm 2022 cho Ngân hàng Chính sách xã hội, cho vay học sinh, sinh viên để mua máy tính học tập trực tuyến do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thực hiện các nhiệm vụ:
Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện cơ chế đặc thù về chỉ định thầu đối với các gói thầu thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2021-2025.
Trên cơ sở văn bản của 16/16 địa phương tự đánh giá năng lực, kinh nghiệm và khẳng định việc làm cơ quan chủ quản thực hiện các đoạn tuyến đường cao tốc thuộc Chương trình qua địa bàn mình, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với Bộ Giao thông vận tải để báo cáo Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phân cấp cho UBND cấp tỉnh làm cơ quan chủ quản thực hiện các dự án, dự án thành phần đầu tư các đoạn tuyến đường bộ cao tốc theo hình thức đầu tư công thuộc Chương trình.
Tham gia hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 09/2022/QĐ-TTg ngày 04/4/2022 về tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn để mua máy tính, thiết bị học tập trực tuyến; ban hành Quyết định quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động; Quyết định về điều kiện, trình tự, thủ tục, mức lãi suất cho vay đối với các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập.
Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm từ nay đến hết quý II năm 2022:
Các bộ, cơ quan, địa phương cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, thống nhất, kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 11/NQ-CP, các Công điện số 126/CĐ-TTg, 252/CĐ-TTg và 290/CĐ-TTg; theo dõi chặt chẽ, chủ động nghiên cứu, dự báo, có phương án ứng phó đồng bộ, linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, các cân đối lớn. Trong đó, chú trọng một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:
- Tập trung, ưu tiên toàn lực để triển khai đồng bộ, hiệu quả Chương trình phòng chống dịch Covid-19 (2022-2023); tiếp tục tổ chức tiêm vắc-xin hiệu quả cho trẻ em từ 5-12 tuổi; chuyển giao công nghệ, nghiên cứu, sản xuất vắc-xin, thuốc điều trị trong nước; bảo đảm nguồn cung, tiếp tục tăng cường công tác quản lý giá thuốc, trang thiết bị y tế phục vụ phòng, chống dịch.
- Điều hành đồng bộ, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ các công cụ chính sách tiền tệ, tài khóa và các chính sách khác để góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, duy trì mức lãi suất cho vay hợp lý nhằm hỗ trợ tích cực cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường quản lý, giám sát thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bảo đảm an toàn hệ thống tài chính.
- Triển khai thực hiện nhanh, đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả hơn nữa các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết số 11/NQ-CP, xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là một trong các tiêu chí quan trọng để đánh giá, xếp loại cuối năm đối với tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu.
2. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng những chương trình quản lý rủi ro, đảm bảo cho việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực được công khai, minh bạch, đúng mục đích, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, chống lợi ích nhóm, tiêu cực và tham nhũng
Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan phối hợp cùng các bộ, ngành và địa phương thực hiện trong khuôn khổ triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Căn cứ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Chương trình đã được phê duyệt tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 41/NQ-CP của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các cơ quan liên quan cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp nhằm giảm thiểu, hạn chế các vấn đề tiêu cực, rủi ro có thể xảy ra liên quan đến việc phân bổ các nguồn lực đầu tư công, đảm bảo tính công khai, minh bạch, đúng mục đích, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, như: (i) Kiểm soát chặt chẽ tổng số dự án sử dụng vốn NSTW triển khai trong giai đoạn 2021-2025; (ii) Kiểm soát chặt chẽ việc dự án quá hạn, ứng trước; (iii) Phân bổ kế hoạch vốn hằng năm theo nguyên tắc, thứ tự ưu tiên ngành, lĩnh vực và phục vụ trực tiếp cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng năm; tiến độ thực hiện dự án;...
Kết quả thực hiện các nhiệm vụ trên sẽ được định kỳ tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, Quốc hội về tình hình thực hiện giao kế hoạch, giải ngân kế hoạch đầu tư vốn NSNN hằng năm (2021, 2022, 2023), kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 5 năm 2021-2025.
3. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại kỳ họp bất thường thứ nhất, Quốc hội khóa XV thông qua Luật số 03/2022/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác Công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự.
Tại Quyết định số 130/QĐ-TTg ngày 25/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được phân công chủ trì xây dựng 02 Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật số 03/2022/QH15. Tiến độ xây dựng các Nghị định cụ thể như sau:
- Nghị định quy định chi tiết việc tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh là doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn do doanh nghiệp nhà nước quy định tại khoản 2 Điều 88 Luật Doanh nghiệp nắm giữ 100% vốn điều lệ: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thiện dự thảo Nghị định, hiện nay đang lấy ý kiến Thành viên Chính phủ trước khi ban hành.
- Nghị định quy định chi tiết khoản 1 Điều 1 và khoản 1 Điều 5 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định này (Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 114/2021/NĐ-CP ngày 16/12/2021 về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài) tại Tờ trình số 2440/TTr-BKHĐT ngày 14/4/2022.
4. Đối với nhiệm vụ: Nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về hỗ trợ, phát triển hộ kinh doanh; xây dựng, ban hành Nghị quyết về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tổ chức triển khai nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về hỗ trợ, phát triển hộ kinh doanh; dự kiến sẽ trình Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ xem xét thông qua trong năm 2023.
- Về dự thảo Nghị quyết về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025: Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 2585/BKHĐT-PTDN về tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ và hoàn thiện dự thảo Nghị quyết để trình Chính phủ ban hành.
5. Đối với nhiệm vụ: Ban hành Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh giai đoạn 2021-2025
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tiếp tục phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan để làm rõ, hoàn thiện Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số trong doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh giai đoạn 2021-2025 để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
6. Đối với nhiệm vụ: Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công, đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân khách quan và chủ quan, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan và trách nhiệm của người đứng đầu, có biện pháp quyết liệt trong việc chuẩn bị đầu tư, phân bổ vốn, giải ngân và quyết toán vốn đầu tư. Các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương đề xuất bố trí vốn sát với khả năng thực hiện, khả năng giải ngân; kịp thời điều chuyển vốn không có khả năng giải ngân và giải ngân chậm cho những dự án có tỷ lệ đã giải ngân cao để đẩy nhanh tiến độ giải ngân
Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Luật số 03/2022/QH15 ngày 11/01/2022 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật doanh nghiệp, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thi hành án dân sự; chủ động xây dựng, ban hành theo thẩm quyền các Nghị định hướng dẫn về quản lý đầu tư xây dựng, hướng dẫn Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, trình tự thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư; quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công; sửa đổi các nội dung vướng mắc về các thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư, thủ tục cho vay lại các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài.
- Trong năm 2021, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã rất quyết liệt trong công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai kế hoạch đầu tư công; nhiều giải pháp được ban hành kịp thời thông qua các Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ, Nghị quyết chuyên đề số 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 về thúc đẩy tăng trưởng và giải ngân vốn đầu tư công, các công điện, văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; 2 Hội nghị trực tuyến toàn quốc về giải ngân và hoạt động của các Tổ công tác được thành lập theo chỉ đạo Thủ tướng Chính phủ,... nhờ đó, tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 đã có những bước cải thiện rõ rệt, nhất là những tháng cuối năm 2021 khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa trở lại và thay đổi phương thức phòng, chống dịch theo hướng “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả”.
- Vốn NSNN năm 2021 được bố trí tập trung, từng bước khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, số lượng dự án chuyển tiếp chiếm gần 70% tổng số dự án được giao kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2021. Đầu tư công thực sự là động lực quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, có tác động lan tỏa lớn, nhất là đối với các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng... NSNN đã tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, thúc đẩy liên kết vùng. Nhiều dự án trọng điểm quốc gia được khởi công.
- Kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công đã được tăng cường. Đến hết niên độ NSNN năm 2021, tất cả các bộ, cơ quan trung ương và địa phương có tỷ lệ giải ngân thấp (dưới 90% kế hoạch được giao) đều tổ chức đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân khách quan, chủ quan, trách nhiệm của các cá nhân có liên quan và người đứng đầu, rút ra bài học kinh nghiệm để triển khai kế hoạch đầu tư công năm 2022 được tốt hơn, phấn đấu đạt mục tiêu giải ngân 100% kế hoạch vốn.
Tại văn bản số 2349/VPCP-KTTH ngày 15/4/2022, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đã yêu cầu các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương không phân bổ hết kế hoạch vốn được giao năm 2021 hoặc có tỷ lệ giải ngân năm 2021 thấp hơn mức bình quân chung cả nước (nhất là các bộ, cơ quan, địa phương giải ngân dưới 20% kế hoạch) tiếp tục rà soát, đánh giá kỹ lưỡng, nghiêm túc nguyên nhân phân bổ chậm, giải ngân chậm, kiểm điểm xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân liên quan đến việc chậm phân bổ, chậm giải ngân do nguyên nhân chủ quan, chưa nỗ lực cố gắng, theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 572/VPCP-KTTH ngày 21 tháng 01 năm 2022; từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm để tập trung lãnh đạo chỉ đạo, triển khai thực hiện các giải pháp quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, khắc phục triệt để các hạn chế, tồn tại nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022.
7. Đối với nhiệm vụ: Năm 2022, phân bổ và giải ngân vốn ngân sách nhà nước đạt 100% dự toán Quốc hội giao
- Tình hình phân bổ, triển khai kế hoạch đầu tư công vốn ngân sách nhà nước năm 2022:
Thực hiện Luật Đầu tư công, các Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định số 2048/QĐ-TTg và 97/QĐ-TTg ngày 06/12/2021 về giao kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2022, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã chủ động, tích cực triển khai giao kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2022 kịp thời, đáp ứng yêu cầu dự án có thể giải ngân kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2022 ngay từ đầu năm.
Tính đến hết ngày 25/4/2022, tổng số vốn các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã có quyết định giao chi tiết cho các dự án đủ thủ tục đầu tư, đủ điều kiện giải ngân trong năm 2022 là 479.527,271 tỷ đồng, đạt 92,6% so với số vốn Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương.
Tuy nhiên, số vốn các bộ, cơ quan trung ương và địa phương chưa phân bổ còn khá lớn (38.578,624 tỷ đồng), bằng khoảng 7,4% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, nguyên nhân chủ yếu là do một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương đang hoàn thiện thủ tục đầu tư (Quyết định đầu tư) cho các dự án vừa được Thủ tướng Chính phủ giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn NSNN giai đoạn 2021-2025.
- Tình hình giải ngân vốn đầu tư nguồn NSNN 04 tháng đầu năm 2022:
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, vốn NSNN năm 2022 ước thanh toán đến 30/4/2022 là 95.724,49 tỷ đồng, đạt 18,48% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, xấp xỉ cùng kỳ năm 2021 (cùng kỳ năm 2021 đạt 18,65% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Trong đó: vốn trong nước là 94.592,89 tỷ đồng đạt 19,57% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; vốn nước ngoài là 1.131,61 tỷ đồng đạt 3,25% kế hoạch. Trong đó:
Có 07 Bộ và 08 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt trên 25%. Một số bộ, địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt cao gồm: Ngân hàng Chính sách xã hội (91,12%), Ngân hàng Phát triển (59,64%), Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (48,86%), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (35,76%), Bình Thuận (33,9%), Phú Thọ (33,4%).
Có 43/51 Bộ và 28/63 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt dưới 17%, trong đó có 17 bộ, cơ quan trung ương chưa giải ngân kế hoạch vốn.
Theo báo cáo của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương, nguyên nhân chủ yếu do có một số dự án khởi công mới đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục đấu thầu, chấm thầu, thương thảo hợp đồng. Bên cạnh đó, một yếu tố khách quan tác động đến tiến độ giải ngân vốn, lặp lại tương tự như những tháng đầu năm 2021 là giá vật tư, vật liệu xây dựng sắt thép, cát đá, xi măng... tăng làm cho tiến độ thi công dự án bị chậm lại. Tuy nhiên, nguyên nhân giải ngân chậm vẫn là do công tác tổ chức triển khai thực hiện tại các bộ, ngành và địa phương còn nhiều bất cập; các cấp, các ngành chưa thực sự vào cuộc, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được đề cao, chưa rõ nét; công tác tuyên truyền đến người dân về chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng còn chưa đầy đủ, thiếu minh bạch; một số chủ đầu tư chưa tích cực thực hiện các thủ tục thanh toán, quyết toán; năng lực chuyên môn của một số cán bộ quản lý dự án, tư vấn giám sát, nhà thầu... còn hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu; công tác đôn đốc nhà thầu triển khai thi công chưa quyết liệt và hiệu quả.
- Một số giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công kế hoạch năm 2022:
Tập trung triển khai quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại các Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2022, số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022, các văn bản số 572/VPCP-KTTH ngày 21/01/2022, số 1684/VPCP-KTTH ngày 17/3/2022, công điện số 252/CĐ-TTg ngày 16/3/2022, Thông báo số 106/TB-VPCP ngày 09/4/2022 của Văn phòng Chính phủ.
Yêu cầu người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương và địa phương phải xác định việc giải ngân vốn đầu tư công là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của năm 2022, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến đất đai, tài nguyên; làm tốt công tác quy hoạch khai thác mỏ và quản lý các mỏ vật liệu, rà soát, điều chuyển kế hoạch đầu tư vốn giữa các dự án chậm giải ngân sang dự án có tiến độ giải ngân tốt, có nhu cầu bổ sung vốn,... chịu trách nhiệm giải trình về kết quả giải ngân cũng như hiệu quả đầu tư của các dự án được giao quản lý.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý thủ tục về đầu tư công như: kiểm soát chi ngân sách nhà nước, hồ sơ thẩm định dự án, đơn rút vốn nhà tài trợ nước ngoài,...
Kiên quyết siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát, hậu kiểm, xử lý nghiêm vi phạm; kiểm soát chặt chẽ mục tiêu, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, lợi ích nhóm. Tăng cường giám sát của các cơ quan chuyên trách và nâng cao khả năng tham gia cộng đồng vào việc giám sát các dự án đầu tư công. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực chất lượng cao về quản lý đầu tư công góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công.
8. Đối với nhiệm vụ: Trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch tổng thể quốc gia theo quy định của Luật Quy hoạch
- Chính phủ đã phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch tổng thể quốc gia tại Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 04/10/2020. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng Báo cáo các quan điểm, mục tiêu, định hướng ưu tiên phát triển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 báo cáo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về quy hoạch năm 2022.
- Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Quyết định số 142/QĐ-BKHĐT ngày 08/02/2022 về Kế hoạch chi tiết lập Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050; Quyết định số 232/QĐ-BKHĐT ngày 14/3/2022 phê duyệt danh sách nhà thầu đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật Gói thầu số 9 thuộc kế hoạch lựa chọn nhà thầu lập Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050.
- Ngày 15/3/2022, Ban cán sự đảng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Tờ trình số 114/TTr-BCSĐ trình Ban cán sự đảng Chính phủ về Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hoàn thiện Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo ý kiến chỉ đạo của Thường trực Chính phủ để trình Bộ Chính trị.
9. Đối với nhiệm vụ: Trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch vùng theo quy định của Luật Quy hoạch
Quy hoạch vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/02/2022.
Tại Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 14/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch của 04 vùng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (vùng Tây Nguyên, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Đông Nam Bộ).
10. Đối với nhiệm vụ: Trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch tỉnh theo quy định của Luật Quy hoạch
Đến nay, có 62/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch tỉnh. Đối với quy hoạch của thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, Hội đồng thẩm định đã tổ chức phiên họp thẩm định Nhiệm vụ lập quy hoạch ngày 08/3/2022; hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh đang hoàn thiện Hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch.
Đến nay, đã có quy hoạch tỉnh Bắc Giang được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 219/QĐ-TTg ngày 17/2/2022; 04 quy hoạch tỉnh của Hà Tĩnh, Quảng Bình, Tuyên Quang, Lào Cai đã được tổ chức họp thẩm định, hiện đang hoàn thiện Hồ sơ quy hoạch để gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quy định.
Hiện nay, Chính phủ đang hoàn thiện báo cáo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 ban hành 01 Nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn, theo đó cho phép điều chỉnh tiến độ lập quy hoạch, tập trung hoàn thành các quy hoạch cấp quốc gia mang tính cấp thiết để hoàn thành trong năm 2022, phấn đấu thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt các quy hoạch còn lại cơ bản trong năm 2023 hoặc giai đoạn tiếp theo.
11. Đối với nhiệm vụ: Phê duyệt quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long
Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/02/2022; Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tiếp tục nghiên cứu xây dựng dự thảo Kế hoạch thực hiện quy hoạch gửi các Bộ, ngành và địa phương có liên quan và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quý II/2022.
12. Đối với nhiệm vụ: Trình Quốc hội xem xét, quyết định Đề án thí điểm tách công tác giải phóng mặt bằng và dự án tái định cư ra khỏi dự án đầu tư công
Thực hiện Nghị quyết số 29/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Chính phủ đã có Tờ trình số 520/TTr-CP ngày 15/11/2021 báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội về Đề án và dự thảo Nghị quyết thí điểm tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập và một số cơ chế, chính sách đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
Văn phòng Quốc hội có Thông báo số 2831/TB-VPQH ngày 27/11/2021, trong đó thông báo ý kiến của Chủ tịch Quốc hội đề nghị Chính phủ: Tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu, hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết của Quốc hội theo đúng phạm vi, nội dung được Quốc hội giao tại Nghị quyết số 29/2021/QH15 và quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến để trình Quốc hội xem xét, quyết định vào thời điểm thích hợp.
Tại văn bản số 8748/VPCP-NN ngày 30/11/2021, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan liên quan nghiên cứu, báo cáo giải trình rõ, kỹ lưỡng các nội dung Kết luận của Chủ tịch Quốc hội tại thông báo nêu trên.
Căn cứ chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tiếp tục nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan liên quan, hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết và để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, làm cơ sở để ban hành các chính sách thí điểm liên quan đến việc tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng ra khỏi dự án đầu tư. Đồng thời, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì xây dựng, trình Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định ban hành một số cơ chế, chính sách đặc thù cho tỉnh Khánh Hòa, trong đó, có nội dung về tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng ra khỏi dự án đầu tư đối với dự án đầu tư công. Nội dung này đã được xây dựng phù hợp với chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội tại Thông báo số 2831/TB-VPQH, chỉ áp dụng đối với địa phương cụ thể (trong phạm vi tỉnh Khánh Hòa), cho dự án cụ thể (các dự án nhóm B thuộc ngành giao thông, thủy lợi), có thời hạn cụ thể (trong thời gian hiệu lực của dự thảo Nghị quyết) và bảo đảm phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật về đất đai về quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng.
13. Đối với nhiệm vụ: Kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về đầu tư công, trong đó tập trung cho các dự án quan trọng quốc gia, dự án lớn, các dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài
- Tổ công tác kiểm ha, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 tại một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương
Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 tại một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương (Quyết định số 1962/QĐ-TTg ngày 22/11/2021). Từ ngày 06/12/2021 đến ngày 15/12/2021, 06 Tổ công tác do các Phó Thủ tướng Chính phủ và một số Bộ trưởng làm Tổ trưởng đã tổ chức các cuộc họp với các bộ, cơ quan trung ương và các địa phương có kết quả giải ngân 10 tháng đầu năm 2021 dưới 60% kế hoạch vốn được Thủ tướng Chính phủ giao để giải thích, làm rõ các quy định của pháp luật về đầu tư công, xây dựng, trực tiếp tháo gỡ vướng mắc khó khăn về các dự án đầu tư.
Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng với kết quả tích cực từ hoạt động của các Tổ công tác trong việc kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về đầu tư công, tiến độ giải ngân vốn NSNN năm 2021 ước đạt 94,94% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Đây là kết quả tích cực trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng cao.
- Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 tại một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 02/5/2022 thành lập 06 Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 tại các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đến ngày 30/4/2022 chưa phân bổ hết kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022 được giao; có tỷ lệ giải ngân đến ngày 30/4/2022 dưới mức trung bình của cả nước (18,48%) (tổng cộng có 44 bộ, cơ quan trung ương và 31 địa phương).
Sau khi kết thúc cuộc kiểm tra, đôn đốc của Tổ công tác, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ nguyên nhân, “nút thắt”, “điểm nghẽn” của việc phân bổ, giải ngân chậm; trách nhiệm của từng cấp, từng đơn vị sử dụng vốn và giải pháp tháo gỡ, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công.
14. Đối với nhiệm vụ: Xử lý nghiêm các trường hợp cố tình làm chậm, gây khó khăn, nhũng nhiễu, vi phạm quy định, tham nhũng, lãng phí về đầu tư công
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm, trong đó chú trọng tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong đầu tư công. Trong năm 2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có kế hoạch tổ chức 6 cuộc thanh tra chuyên ngành về việc chấp hành pháp luật về đầu tư công giai đoạn 2016-2020 tại các tỉnh Cao Bằng, Hòa Bình, Bình Định, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế và Tuyên Quang. Đã triển khai các cuộc thanh tra chuyên ngành tại tỉnh Hòa Bình, Cao Bằng và Bình Định.
Qua công tác thanh tra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị, tổ chức có liên quan nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm, kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, sai sót trong việc triển khai và chấp hành pháp luật trong đầu tư công, đồng thời kiến nghị xử lý về mặt kinh tế với tổng số tiền là: 35,36 tỷ đồng
Một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả trong sử dụng vốn đầu tư công trong thời gian tới, cụ thể như sau:
- Chấn chỉnh, khắc phục sai sót trong công tác phê duyệt dự án đảm bảo phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; việc thẩm định cấp và điều chỉnh Giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư, quyết định chủ trương đầu tư theo quy định pháp luật về đầu tư và các quy định pháp luật có liên quan.
- Có biện pháp xử lý đối với các dự án không triển khai thực hiện hoặc chậm tiến độ, không thực hiện đúng các nội dung quy định trong quyết định chủ trương đầu tư, Giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư.
- Tổ chức rà soát và có các biện pháp xử lý đối với các sai sót liên quan đến tài chính của dự án theo kết quả thanh tra để tránh gây thất thoát Ngân sách nhà nước.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các dự án sau khi quyết định chủ trương đầu tư, Giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư.
- Tiếp tục triển khai các cuộc thanh tra pháp luật về đầu tư công theo kế hoạch đã được phê duyệt và sẵn sàng bố trí mọi nguồn lực để hoàn thành các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất cũng như các nhiệm vụ khác có liên quan theo yêu cầu, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
- Tiếp tục thực hiện công tác theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các Kết luận, kiến nghị sau thanh tra trong lĩnh vực đầu tư công để đảm bảo các nội dung kiến nghị tại kết luận thanh tra được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
15. Đối với nhiệm vụ: Hoàn thiện Nghị định thay thế Nghị định số 56/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2021/NĐ-CP ngày 16/12/2021 về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài, thay thế Nghị định số 56/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020, bảo đảm các quan điểm, nguyên tắc sau:
- Bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và phù hợp với các quy định của hệ thống pháp luật liên quan đến công tác quản lý và sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, đặc biệt là các văn bản pháp luật ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung trong thời gian gần đây (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường) và những văn bản pháp luật liên quan việc doanh nghiệp vay lại 100% vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài (Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư theo phương thức hợp tác công tư, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp).
- Đổi mới công tác quản lý, đơn giản hóa thủ tục, tăng cường phân cấp để tạo thuận lợi cho việc tiếp nhận vốn ODA không hoàn lại.
- Kế thừa những mặt được của Nghị định số 56/2020/NĐ-CP đồng thời giải quyết những hạn chế, bất cập trong quá thực hiện Nghị định này.
- Bổ sung những nội dung mới xuất phát từ các chủ trương, chính sách mới của Đảng và nhà nước và xu thế mới trong quan hệ hợp tác phát triển của các nhà tài trợ với Việt Nam.
Giải pháp trong thời gian tới:
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 130/QĐ-TTg ngày 25/1/2022 về danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Tờ trình số 768/TTr-BKHĐT ngày 07/02/2022 về việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 114/2021/NĐ-CP ngày 16/12/2022 của Chính phủ về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài.
Nghị định sửa đổi để phù hợp với Luật số 03/2022/QH15 ngày 11/01/2022, trong đó quy định: (i) việc phân cấp thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư nhóm B, C sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi; và (ii) phân cấp thẩm quyền phê duyệt dự án hỗ trợ kỹ thuật sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài để chuẩn bị dự án đầu tư. Việc phân cấp thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án đầu tư nhóm B, C sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi là biện pháp quan trọng nhằm rút ngắn thời gian phê duyệt dự án và thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nói chung và vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài nói riêng.
16. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục đẩy mạnh công tác phối hợp, trao đổi với các nhà tài trợ nước ngoài nhằm tăng cường công tác vận động, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi, đặc biệt chú trọng đối với các dự án có quy mô lớn về phát triển kinh tế - xã hội, các dự án kết nối hạ tầng có tính chất liên vùng, có tác động lan tỏa, các dự án về ứng phó biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, các khoản hỗ trợ cho việc phòng, chống dịch Covid-19
Về thu hút vốn ODA, vốn vay ưu đãi năm 2021: Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết năm 2021 đạt khoảng 1.180 triệu USD (954,36 triệu USD ODA vốn vay và 225,64 triệu USD ODA viện trợ không hoàn lại).
Về huy động sự hỗ trợ của các nhà tài trợ nước ngoài trong công tác phòng, chống dịch Covid-19: Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ ngành liên quan, huy động sự hỗ trợ của các nhà tài trợ nước ngoài trong công tác phòng, chống dịch Covid-19; hỗ trợ Bộ Y tế hoàn thiện các thủ tục tiếp nhận vắc - xin phòng chống Covid-19 từ các đối tác với tổng vốn viện trợ dành cho phòng chống dịch Covid-19 khoảng 150 triệu USD và 58,4 triệu liều vắc xin, bao gồm: (i) Quỹ COVAX, các Chính phủ (Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Ý, Đức, Hoa Kỳ, Bỉ, EU, Hungary, Cu Ba) viện trợ vắc xin, ô tô, trang thiết bị y tế; (ii) Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức Liên hợp quốc, như: triển khai tiêm chủng vắc xin Covid-19 tại Việt Nam, hỗ trợ vật tư tiêu hao (găng tay, khẩu trang, vải nylon y tế), hỗ trợ 113 tủ âm sâu đựng vắc-xin, đào tạo năng lực cán bộ y tế để đối phó dịch Covid-19; (iii) Vận động Chính phủ Đức viện trợ 15 triệu Euro vốn ODA không hoàn lại cho Dự án “Hỗ trợ công tác dự báo và quản lý dịch bệnh, đặc biệt là Covid-19 dựa trên ứng dụng trí tuệ nhân tạo” và 30 triệu Euro vốn vay ODA cho Dự án Trung tâm Hồi sức cấp cứu Vùng của Phú Thọ; EU viện trợ 19 triệu Euro hỗ trợ ngân sách cho Chính phủ Việt Nam trong công tác phòng, chống dịch; 03 Dự án khẩn cấp phòng chống Covid-19 do Quỹ Toàn cầu phòng chống HIV/AIDS, Lao và sốt rét viện trợ trị giá 15 triệu USD.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham gia xác định nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển từ nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi, đặc biệt là các dự án liên quan đến phòng, chống dịch Covid-19; tổng hợp và trình Thủ tướng Chính phủ các đề xuất chương trình, dự án sử dụng vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi.
Phương hướng trong thời gian tới:
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh đã có chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
- Về thể chế, chính sách:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan, khẩn trương hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 114/2021/NĐ-CP ngày 16/12/2021 về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài sau khi Luật sửa đổi 9 Luật đã được Quốc hội thông qua; trong đó, quy định đơn giản hóa về quy trình, thủ tục đối với các chương trình, dự án ODA, vay ưu đãi nước ngoài nhóm B, C.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục tổ chức hội thảo, phổ biến cho các bộ ngành, địa phương về Quyết định số 2109/QĐ-TTg ngày 15/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021-2025.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ ngành, địa phương thực hiện tổng kết, đánh giá Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 29/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài trong tình hình mới cho chi đầu tư phát triển, không vay cho chi thường xuyên; kiến nghị giải pháp chỉnh sửa cần thiết nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện, điều chỉnh các dự án ODA, vay ưu đãi nước ngoài; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15/6/2022.
- Về công tác kế hoạch vốn:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương tổng hợp bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn nguồn vốn nước ngoài giai đoạn 2021-2025 và năm 2022 đối với các dự án đã có đủ điều kiện, báo cáo Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Các cơ quan chủ quản theo dõi sát sao tình hình và khả năng giải ngân của từng dự án trong từng tháng, kịp thời điều chuyển kế hoạch vốn từ dự án giải ngân thấp sang dự án giải ngân cao theo quy định; ưu tiên bố trí đủ vốn cho các dự án kết thúc hiệp định trong năm kế hoạch; bố trí đủ thanh toán cho các cam kết hợp đồng đã ký với nhà thầu; ưu tiên các dự án khẩn cấp, trọng điểm, đang gặp vướng mắc do thiếu kế hoạch vốn...
- Về xử lý các vướng mắc nhằm thúc đẩy giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi:
Các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục thực hiện theo chỉ đạo tại Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022.
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc Phòng, Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn thủ tục xuất nhập cảnh, tạo thuận lợi cho các chuyên gia, tư vấn vào Việt Nam, nhất là phục vụ các dự án đầu tư.
Bộ Tài chính: Tiếp tục đơn giản hóa quy trình kiểm soát chi và hồ sơ yêu cầu rút vốn; tăng cường công tác hậu kiểm trong giải ngân vốn đầu tư công. Triển khai đơn rút vốn của các nhà tài trợ bằng chứng từ điện tử, chữ ký số; chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương hướng dẫn các cơ quan chủ quản, chủ đầu tư giải quyết các vướng mắc về thuế, thủ tục thanh toán, rút vốn... đối với các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài; có cơ chế tạo thuận lợi cho việc nhập khẩu vật tư, trang thiết bị của các dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài; đẩy nhanh tiến độ ký kết các hiệp định vay vốn, hợp đồng vay lại.
Đề nghị Bộ Tư pháp chủ trì, trao đổi với các nhà tài trợ về các nội dung của ý kiến pháp lý, đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật và hài hòa giữa hai bên, do cơ quan chủ quản không thể trao đổi với nhà tài trợ.
Các Bộ, ngành và địa phương phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, các cơ quan liên quan và nhà tài trợ để giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án.
Các Bộ, ngành và địa phương đẩy nhanh hoàn thiện thủ tục đầu tư (thiết kế kỹ thuật, dự toán...); bố trí đủ vốn đối ứng, đẩy nhanh hoàn thành thủ tục để ký, trao hợp đồng cho các gói thầu.
- Về công tác thu hút, vận động, tổ chức thực hiện dự án:
Cung cấp kịp thời thông tin cho cơ quan chủ quản: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cung cấp thông tin về các lĩnh vực, khu vực ưu tiên và tài khóa của nhà tài trợ; Bộ Tài chính cung cấp thông tin về khả năng vay trả nợ của quốc gia, của từng địa phương. Căn cứ các thông tin trên và quy định về quản lý và sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi, các bộ, ngành và địa phương xây dựng đề xuất dự án phải nằm trong cân đối tổng thể đầu tư công trung hạn và nợ công trung hạn, phù hợp với khả năng vay lại của các địa phương và đảm bảo tính hiệu quả của chương trình, dự án.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục trao đổi với các nhà tài trợ nước ngoài nhằm tăng cường công tác vận động, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi.
Tăng cường năng lực tổ chức thực hiện dự án ODA, vay ưu đãi nước ngoài ở các cấp từ cơ quan chủ quản, chủ đầu tư, ban quản lý dự án và đội ngũ cán bộ quản lý dự án.
Chính phủ trân trọng báo cáo và xin nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Quốc hội về việc thực hiện Nghị quyết số 41/2021/QH15 của Quốc hội khóa XV./.
| TM.CHÍNH PHỦ |
- 1 Công văn 11537/VPCP-QHĐP năm 2019 thực hiện Nghị quyết về hoạt động chất vấn Kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XIV do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 2 Kế hoạch 398/KH-BNN-TY năm 2020 thực hiện Nghị quyết 100/2019/QH14 về hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV (các nhiệm vụ thú y) do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành
- 3 Nghị quyết 499/NQ-UBTVQH15 năm 2022 về hoạt động chất vấn tại phiên họp thứ 9 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV
- 4 Công văn 2422/VPQH-CQT năm 2021 về quy định đảm bảo công tác phòng chống dịch COVID-19 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV do Văn phòng Quốc hội ban hành
- 5 Nghị quyết 63/2022/QH15 về kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV