TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 29/NCPL | Hà Nội, ngày 06 tháng 4 năm 1992 |
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 29/NCPL NGÀY 6 THÁNG 4 NĂM 1992 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN LY HÔN VỚI MỘT BÊN ĐƯƠNG SỰ ĐANG Ở NƯỚC NGOÀI
Kính gửi: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
Sau khi nghiên cứu Công văn số 42/DS-TA ngày 12-3-1992, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Đối với các trường hợp cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài (Đại sứ quán hoặc lãnh sự quán) được uỷ thác đã có giấy triệu tập dương sự để lấy lời khai, nhưng đương sự không đến để khai báo thì tuỳ trường hợp cụ thể mà giải quyết như sau:
- Nếu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài cho biết là đương sự đã nhận được giấy triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng vẫn cố tình không đến để khai báo, cung cấp những tài liệu cần thiết, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
- Nếu đương sự không có địa chỉ rõ ràng sống lưu vong, không ai quản lý, cho nên cơ quan ngoại giao của nước ta không thể liên hệ với họ được, thì Toà án yêu cầu thân nhân của đương sự đang ở nước ngoài gửi cho họ lời khai của đương sự trong nước và báo cho đương sự đang ở nước ngoài gửi về Toà án những lời khai hoặc các tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử, nếu đương sự ở trong nước công nhận những lời khai hoặc tài liệu gửi về đúng là của đương sự đang ở nước ngoài. Cũng theo cách thức liên hệ này và đã liên hệ được với đương sự đang ở nước ngoài, nhưng họ cố tình từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết đến lần thứ hai, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp đương sự không có thân nhân ở trong nước, cũng như trong trường hợp không liên hệ được (không biết bị đơn đang ở đâu), thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Đối với trường hợp này Toà án cần giải thích cho đương sự đang ở trong nước (nguyên đơn) biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích như đã hướng dẫn tại Nghị quyết số 3-HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Đối với các trường hợp cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài đã lấy được lời khai của đương sự, nhưng sau khi xét xử sơ thẩm thì việc giao bản sao bản án cho họ không thực hiện được vì họ không còn ở nơi ở cũ thì Toà án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yết bản sao bản án tại trụ sở của cơ quan ngoại giao đó. Trong thời hạn ba tháng kể từ ngày Toà án gửi Công văn và bản sao bản án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yết bản sao bản án, dù Toà án có nhận được hay không nhận được thông báo của cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài về việc đã niêm yết bản sao bản án, nhưng không có đơn, thư của đương sự đang ở nước ngoài về việc đương sự đang ở nước ngoài có kháng cáo, đồng thời trong thời gian kháng cáo, kháng nghị được quy định tại Điều 59 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, bản án cũng không bị những người khác kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị, thì Toà án có quyền đưa bản án ra thi hành.
| Trịnh Hồng Dương (Đã ký) |
- 1 Công văn 253/TANDTC-PC năm 2018 về giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- 2 Công văn 72/TANDTC-PC năm 2017 thống nhất áp dụng quy định về án phí trong vụ án ly hôn do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- 3 Công văn về việc ly hôn với một bên đang ở nước ngoài
- 4 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 do Hội đồng Nhà nước ban hành