BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2666/BKH-TH | Hà Nội, ngày 09 tháng 5 năm 2000 |
Kính gửi : | - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ |
1. Mục đích, yêu cầu.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 có vị trí quan trọng: là kế hoạch mở đầu của thế kỷ 21. Thế kỷ phát triển toàn diện và mạnh mẽ của nhiều quốc gia trên toàn cầu; là kế hoạch 5 năm đầu tiên thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 phải cụ thể hoá nội dung và bước đi của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, song trong tình hình hiện nay việc xây dựng kế hoạch 5 năm sẽ tiến hành đồng thời với quá trình xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm nên trong việc tổ chức nghiên cứu phải phối hợp rất chặt chẽ, sử dụng kết quả của nhiều ngành, ban tránh làm trùng lặp, riêng lẻ gây lãng phí và tốn thời gian, nhất là các vấn đề chung như đáng giá thực trạng kinh tế - xã hội khi bước vào thế kỷ 21, dự báo bối cảnh quốc tế và khu vực trong những năm đầu của thế kỷ 21, những chủ trương, đường lối và chính sách của thời kỳ mới,....
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm là kế hoạch định hướng và là bước cụ thể của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010). Kế hoach này phải xuất phát từ nhu cầu phát triển, những dự báo về thị trường, các định hướng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực, phát huy được những lợi thế so sánh. Kế hoạch không mang tính áp đặt, cứng nhắc theo số lượng, do phải bắt tay thực hiện ngay từ đầu tiên, nên đòi hỏi phải xác định và tính toán chặt chẽ, đưa ra nhiều phương án để lựa chọn, chú trọng cả 2 mặt định tính và định lượng. Chúng ta đã trải qua 6 kỳ kế hoạch 5 năm và thời kỳ 2001-2005 là kế hoạch 5 năm lần thứ 7 nêu cần rút kinh nghiệm các kế hoạch trước để xây dựng một kế hoạch toàn diện, thực hiện, mang tính khả thi cao, tránh tư tưởng chờ đợi, nóng vội khi bố trí kế hoạch, nhưng đồng thời cũng không quá dè dặt, không thấy hết các tiềm nămg để khai thác và huy động cho nhu cầu phát triển.
Trong việc xây dựng kế hoạch 5 năm, ngoài việc đánh giá tình hình, xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, cơ cấu kinh tế và dự báo, tính toán các cân đối lớn,... thì việc nghiên cứu đề xuất các cơ chế chính sách, các giải pháp để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu đề ra là rất quan trọng.
Kế hoạch 5 năm phải là sản phẩm của trí tuệ tập thể các ngành, các cấp, của toàn xã hội nên cần được đưa ra bàn bạc công khai, thu thập ý kiến của nhiều nhà khoa học kinh tế, xã hội, nhiều tổ chức kinh tế, xã hội, kể cả ý kiến của một số tổ chức và cá nhân người nước ngoài (nếu thấy cần thiết).
Khi xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bảo đảm các yêu cầu sau:
a) Kế hoạch được xây dựng trên cơ sở dự báo tình hình và xu thế phát triển trong nước và quốc tế, phân tích sâu sắc và cụ thể những khó khăn và thuận lợi cơ bản khi bước vào kế hoạch 5 năm, khả năng huy động nội lực của từng ngành, từng địa phương trong tương lai có thể khai thác đưa vào đầu tư phát triển, khả năng mở rộng thị trường và thu hút vốn nước ngoài;
b) Kế hoạch thể hiện được tính liên tục trong sự nghiệp đổi mới theo đường lối, quan điểm của Đảng, cụ thể hoá những nội dung và bước đi của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, đẩy nhanh chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả;
c) Khai thác tối đa tiềm lực trong nước, đây là yếu tố quyết định đồng thời tranh thủ nhiều hơn các nguồn lực bên ngoài, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn cho phát triển, thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế;
d) Kết hợp thực hiện đồng thời 3 nhiệm vụ chiến lược: phát triển ổn định hiệu quả cao; xây dựng về cơ bản cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; tạo thé và lực để hội nhập kinh tế quốc tế thắng lợi. Kết hợp hài hoà giữa mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế với công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh quốc phòng.
2. Về đánh giá tình hình kinh tế - xã hội 5 năm qua (1996-2000).
Các Bộ, ngành, địa phương tập trung chủ yếu vào kiểm điểm việc thực hiện các mục tiêu, các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 1996-2000 đã được Đại hội VIII thông qua, cần làm rõ những mặt làm được, những mặt chưa làm được, những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm, những nhân tố mới, mô hình mới để phổ biến và nhân rộng. Tập trung vào các vấn đề sau:
(1) kết hợp với việc tổng kết tình hính kinh tế - xã hội 10 năm 1991 - 2000, dựa vào mức độ thực hiện kế hoạch 4 năm 1996 -1999 và dự kiến thực hiện kế hoạch năm 2000, cần tập trung đi sâu đánh giá việc thực hiện các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1996- 2000, việc thực hiện các chương trình phát triển đã được đề ra trong Đại hội VIII và theo tinh thần các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương lần thứ IV,V, VI và các Nghị quyết của Quốc hội qua từng năm.
(2) Đánh giá việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả, ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, chuẩn bị tiền đề cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000, chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế.
(3) Đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương chính sách lớn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế với việc củng cố và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước đồng thời phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế khác; sự chuyển dịch kinh tế trong từng ngành, từng vùng lãnh thổ; phát triển kinh tế đối ngoại; huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư cho phát triển, bao gồm cả nguồn vốn ODA và vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài; giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách.
(4) Khi tổng kết, đánh giá tình hình, cần nêu cụ thể thực trạng khai thác và sử dụng các nguồn lực kinh tế trên các mặt:
- Khai thác nguồn đất đai và thực trạng sử dụng đất đai;
- Nguồn lao động và sử dụng lao động;
- Khai thác và sử dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ;
- Tiềm năng nguồn tài chính quốc gia, công tác huy động và sử dụng nguồn ngân sách, nguồn tài chính doanh nghiệp, nguồn tài chính từ khu vực dân cư, liên doanh, liên kết.
(5) Đánh giá cơ chế quản lý nói chung và công tác chỉ đạo điều hành kế hoạch.
(6) Rút ra những kết luận và bài học kinh nghiệm.
Qua việc đánh giá tình hình kinh tế - xã hội 5 năm qua, những việc làm được và những tồn tại yếu kém vẫn còn nhiều.
Các Bộ ngành địa phương cần phân tích những yếu tố chủ quan và khách quan tác động; tìm ra những nguyên nhân và những bài học cụ thể trên một số mặt như:
- Việc chỉ đạo thực hiện các chính sách phát triển; việc quán triệt các quan điểm về đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội đã được nêu ra trong các Nghị quyết của Đảng; công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương và các cấp chính quyền ở địa phương; công cuộc cải cách hành chính và hiệu lực điều hành của bộ máy chính quyền các cấp.
- Vấn đề quy hoạch, dự báo, khai thác nội lực kết hợp với huy động có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài để tăng nguồn lực phát triển.
3. Về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005.
(1) Trên cơ sở những thuận lợi và khó khăn của đất nước khi bước vào kế hoạch 5 năm tới, các Bộ, ngành, địa phương cần xác định và dự báo những thuận lợi khó khăn của thời kỳ phát triển mới dựa vào các yếu tố như:
- Tiềm lực kinh tế của các Bộ, ngành, địa phương sau 10 năm đổi mới
- Cơ cấu kinh tế của các ngành, địa phương.
- Hiệu quả hoạt động kinh tế xã hội, sức cạnh tranh và trình độ sản xuất trong từng ngành, từng vùng, từng địa phương.
- Mức cải thiện đời sống và trình độ sống của các tầng lớp dân cư. Những vấn đề bức xúc trong xã hội.
- Tổ chức bộ máy, trình độ đội ngũ cán bộ.
(2). Dự báo khả năng huy động các nguồn lực và cân đối một số sản phẩm chủ yếu.
- Trên cơ sở thông tin vĩ mô (chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005), dựa vào thực trạng kinh tế - xã hội của ngành, địa phương, xem xét toàn bộ nguồn lực và dự báo khả năng khai thác, huy động, để đưa vào phát triển kinh tế của ngành, vùng, địa phương. Tập trung vào một số dự báo như:
- Về lao động: trong 5 năm 2000-2005 dự kiến số lao động mới tăng thêm, số lao động của ngành, địa phương đến năm 2005, trong đó lao động qua đào tạo tăng thêm.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành, địa phương tăng trong 5 năm.
- Về khả năng tích luỹ của ngành, địa phương.
- Về khả năng huy động nguồn vốn đầu tư phát triển của ngành, vùng lãnh thổ, bao gồm:
Nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư tín dụng Nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư từ khu vực dân cư và tư nhân.
Khả năng thu hút nguồn ODA.
Khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
(3) Các Bộ, ngành hàng với chức năng quản lý của mình tiến hành dự báo nhu cầu và xây dựng một số cân đối sản xuất chủ yếu như cân đối lương thực, cân đối năng lượng (bao gồm cả năng lượng điện, than mỏ, xăng dầu), cân đối thép, cân đối xi măng, đường,....
(4) Xác định nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001- 2005.
(4.1) Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001-2005) của đất nước là:
Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, tiếp tục khắc phục những yếu kém tồn tại trong nền kinh tế, nâng dần nhịp độ tăng trưởng kinh tế, không thể thấp hơn mức bình quân 5 năm trước; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao tiềm lực mọi mặt của đất nước; tạo bước chuyền biến về sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển; thực hiện các cam kết quốc tế và hội nhập kinh tế theo lộ trình chủ động; nâng cao năng lực khoa học, công nghệ, giáo dục đào tạo, coi trọng phát huy nhân tố con người, chăm lo giải quyết các vấn đề bức xúc về công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo cải thiện đời sống của nhân dân, từng bước tăng cường cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và tạo các tiền đề cần thiết khác để đi vào giai đoạn phát triển tiếp theo. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh Tổ quốc; giữ vứng ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống.
(4.2) Mục tiêu tổng quát nêu trên sẽ được cụ thẻ hoá trong kế hoạch hàng năm bao gồm các nội dung và nhiệm vụ chủ yếu như sau:
- Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm không thấp hơn mức bình quân 5 năm 1996-2000 và nếu tạo được điều kiện sẽ tăng cao hơn, chuẩn bị tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo, ở một số vùng thuận lợi và vùng kinh tế trọng điểm, động lực phấn đấu với mức tăng trưởng bằng 1,4 lần so với mức bình quân của cả đất nước.
- Tăng nhanh đầu tư phát triển toàn xã hội; tập trung đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế và hoàn thiện bước cơ bản về hạ tầng; hỗ trợ đầu tư, tạo điều kiện cho các vùng kém phát triển có điều kiện khai thác được thế mạnh trong vùng để phát triển nhanh hơn.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho mục tiêu tăng trưởng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Khẩn trương chuẩn bị các điều kiện cần thiết nhất để thực hiện các cam kết quốc tế và hội nhập kinh tế theo lộ trình một cách chủ động hiệu quả.
- Tăng tiềm lực và khả năng tài chính quốc gia, tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá quan hệ tài chính - tiền tệ; thực hiện triệt để tiết kiệm, tăng tỷ lệ chi Ngân sách dành cho đầu tư phát triển. Tiếp tục thực hiện mục tiêu ổn định giá cả, tiền tệ; loại trừ các nguy cơ tái lạm phát cao cũng như tình trạng trì trệ, giảm phát.
- Tiếp tục đổi mới toàn diện, sâu rộng và phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí, xây dựng đội ngũ lao động có chất lượng, có cơ cấu hợp lý, có trình độ tiếp thu những công nghệ hiện đại và những ngành nghề mới, đầy đủ phẩm chất và năng lực sáng tạo thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển khoa học và công nghệ, đủ sức nắm bắt, ứng dụng các công nghệ tiên tiến và chuẩn bị điều kiện tự tạo ra nền công nghệ trong nước, coi đó là một trong những yếu tố quyết định và đột phá để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc về xã hội. Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở cả thành thị và nông thôn. Phát triển văn hoá thông tin, chăm lo và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, nâng cao mức sống của dân cư. Thực hiện tốt hơn chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng nghèo, xã nghèo. Thực hiện tốt dân chủ, nhất là dân chủ ở xã, phường và các đơn vị cơ sở. Nâng cao hiệu quả công tác phòng và chống các tệ nạn xã hội.
- Đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, đổi mới bộ máy, nâng cao hiệu lực và trình độ đội ngũ cán bộ. Đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ công chức.
- Thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự kỷ cương trong các hoạt động kinh tế và xã hội.
(4.3) Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010; mục tiêu tổng quát và phương hướng nhiệm vụ của thời kỳ 2001-2005 đã được xác định; dựa trên những phân tích, dự báo về xu thế phát triển của cả nước cũng như của ngành, địa phương; các bộ, ngành, các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương cần cụ thể hoá các nhiệm vụ phát triển trong kế hoạch 5 năm tới, tập trung vào những vấn đề chủ yếu như sau:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, vấn đề chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, mục tiêu phát triển các cây trồng, vật nuôi trong từng vùng; hình thành các vùng cây công nghiệp tập trung và mạng lưới công nghiệp chế biến; khả năng phát triển chăn nuôi, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản, phát triển kinh tế biển và vùng ven biển; kế hoạch triển khai thực hiện dự án trồng 5 triệu ha rừng;
- Dự báo từng sản phẩm công nghiệp, nhất là sản phẩm công nghiệp có ưu thế cạnh tranh. Phát triển công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp nhẹ; dầu mỏ, khí đốt, điện than, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp nguyên liệu, hoá chất, khai thác mỏ, công nghiệp cơ khí, điện tử. Chuyền dịch nhanh chóng cơ cấu sản xuất công nghiệp theo ngành, theo sản phẩm, theo vùng và theo thành phầm kinh tế.
- Nhiệm vụ và mục tiêu phát triển các ngành kinh tế dịch vụ như vận tải, thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông, du lịch, thương mại, các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng, dịch vụ khoa học công nghệ, pháp luật....
- Xây dựng định hướng xuất - nhập khẩu có lộ trình chủ động hội nhập quốc tế và khu vực, có chiến lược nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm sản xuất trong nước.
- Xây dựng chương trình phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển giáo dục đào tạo, phát triển khoa học, đổi mới công nghệ, bảo vệ môi trường. Phát triển các mặt xã hội hài hoà với kinh tế. Giải quyết công ăn việc làm; xây dựng chương trình xoá đói giảm nghèo trong từng vùng có kế hoạch nâng dần mức sống các tầng lớp dân cư.
- Tiến độ và khả năng thực hiện các công trình quan trọng quốc gia.
- Trên cơ sở tính toán, dự báo các nguồn lực phát triển có thể khai thác được trong từng ngành, từng vùng; các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành xây dựng các chương trình đầu tư phát triển bằng tất cả các nguồn vốn; thiết lập danh mục các dự án đầu tư... phương án huy động và bố trí nguồn vốn; các giải pháp cụ thể và đề xuất các cơ chế chính sách bảo đảm cho việc thực hiện các phương án đã đề ra.
(4.4) Trong khi xây dựng định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế cần phải tiếp tục thực hiện mạnh mẽ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm trong định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực; tập trung xây dựng những công trình công nghiệp tạo nền tảng cần thiết cho sự phát triển bền vững; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tạo bước chuyển biến mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; phát triển công nghiệp theo hướng tăng nhanh công nghiệp chế tác, trong đó các ngành công nghiệp công nghệ cao chiếm tỷ trọng đáng kể. Phát triển nguồn nhân lực gắn liền với nâng cao trí tuệ con người, tạo ra bước đột phá mạnh mẽ về khoa học và công nghệ, đủ sức tiếp thu công nghệ cao của thế giới và nâng cao năng lực nội sinh, đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Các Bộ, ngành, địa phương cần cụ thể hoá:
- Khả năng tăng trưởng của ngành, lĩnh vực. Vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các mục tiêu và các chỉ tiêu tăng trưởng, gắn liền với hiệu quả phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Mục tiêu và khả năng chuyển dịch cơ cấu ngành, lĩnh vực.
- Các giải pháp và các cơ chế chính sách phát triển ngành, lĩnh vực.
- Những lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên phát triển.
(5) Xây dựng cơ chế chính sách phát triển.
Trên cơ sở khung cơ chế chính sách đã được trình ra Hội nghị Trung ương lần thứ 9; các Bộ, ngành, địa phương cần nghiên cứu, cụ thể hoá phù hợp với từng ngành từng vùng lãnh thổ và phù hợp với khung cơ chế chính sách chung cho 5 năm 2001 - 2005 với các nội dung như sau:
- Phát triển nhanh, đồng bộ hệ thống thị trường trên cơ sở tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho mọi doanh nghiệp, nhà đầu tư. Phát triển hệ thống thị trường đầy đủ, đồng thời với sự tham gia bình đẳng của mọi doanh nghiệp trên tất cả các thị trường cả về phía cung và phía cầu trên các loại hình thị trường, các lĩnh vực của nền kinh tế.
- Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính - tiền tệ, thực hành triệt để tiết kiệm, tăng tỷ lệ Ngân sách giành cho đầu tư phát triển, khống chế mức bội chi Ngân sách tiến tới cân bằng thu chi và tăng dự trữ. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Tiép tục đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối và thị trường ngoại tệ, từng bước tiến hành việc thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam.
- Đồng bộ hoá khung khổ luật pháp, cơ chế, chính sách cho đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh. tạo môi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh của các thành phần kinh tế, kể cả trong nước và nước ngoài. Hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển một cách ổn định,
- Hoàn thiện khung khổ pháp lý để đẩy mạnh quá trình hội nhập có hiệu quả, nhất là xây dựng chiến lược thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia hợp tác, đầu tư với nước ngoài; xây dựng chiến lược xuất khẩu.
- Cải cách cơ bản, đồng bộ bộ máy hành chính Nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh. Đảm bảo hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có hiệu lực, hiệu quả.
- Đổi mới thường xuyên, có trọng điểm chính sách xã hội, chính sách bảo vệ môi trường, đảm bảo phát triển bền vững trên cơ sở xây dựng khung cơ chế chính sách cơ bản mang tính định hướng lâu dài.
- Đối với các tỉnh, thành phố cần chú ý xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương mình nhằm động viên tối đa nguồm lực cho phát triển.
- Đối với một số Bộ quản lý ngành, cần đi sâu nghiên cứu, xây dựng một số cơ chế chính sách phát triển ngành, lĩnh vực như:
+ Bộ Công nghiệp dự báo các sản phẩm công nghiệp và các chính sách phát triển từng loại sản phẩm có tiềm năng và triển vọng, chính sách phát huy các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất công nghiệp, chính sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vừa và nhỏ, nhất là ở vùng nông thôn, dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm,....
+ Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn. nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, chính sách phát triển trang trại, chính sách phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, chính sách bảo hộ sản phẩm nông nghiệp,....
+ Bộ Tài chính, nghiên cứu hoàn thiện các chính sách thuế, cơ chế quản lý có hiệu quả nền tài chính quốc gia.
+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nghiên cứu kiện toàn và cải cách hệ thống Ngân hàng, trước hết là Ngân hàng thương mại quốc doanh theo hướng làm cho các Ngân hàng này thực sự trở thành các doanh nghiệp kinh doanh theo cơ chế thị trường, mở rộng các hình thức thanh toán, giao dịch thông qua ngân hàng, giảm bớt tỷ lệ thanh toán tiền mặt. Xây dựng chính sách lãi suất cho vay phù hợp với tình hình đất nước trong từng gia đoạn.
+ Bộ Thương mại, nghiên cứu xây dựng chính sách ưu tiên xuất khẩu theo hướng phát huy lợi thế so sánh, nâng cao năng lực cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư vào chế biến xuất khẩu, thực hiện bảo hộ có trọng điểm, có giới hạn trong nhập khẩu đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
+ Đối với các Bộ quản lý các vấn đề xã hội như Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Lao động thương binh xã hội, Bộ Khoa học Công nghệ và môi trường cần nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách về phát triển nguồn nhân lực, ưu tiên đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, chính sách ưu tiên phát triển công nghề mới, hiện dại, chính sách bảo vệ môi trường,.... nhằm đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội.
(6) Xây dựng và lựa chọn các phương án phát triển của ngành, lĩnh vực, địa phương:
Trên cơ sở dự báo, tính toán các khả năng khai thác nguồn lực trong từng ngành, từng địa phương và khả năng phát triển của dất nước trong 5 năm tới, các Bộ ngành địa phương sẽ tính toán, xây dựng các phương án phát triển kinh tế, xã hội của ngành, địa phương vùng lãnh thổ trong 5 năm tới để từ đó lựa chọn phương án phù hợp nhất.
Trong mỗi phương án cần xác định rõ mục tiêu ưu tiên và chương trình phát triển, hệ thống các cơ chế chính sách, các giải pháp thực hiện.
Mục tiêu và chỉ tiêu các phương án kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm được dự kiến phân bổ ra từng năm trên cơ sở phân tích, đánh giá và dự báo yêu cầu, khả năng của từng năm để thực hiện.
4. Thực hiện đúng tiến độ xây dựng kế hoạch.
Trên cơ sở những thông tin tại Hội nghị ngành kế hoạch vào đầu tháng 4/2000 các Bộ, ngành, địa phương tổ chức xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 theo tiến độ sau:
- Tháng 6/2000 Hội nghị Trung ương lần thứ 10 khoá VIII tiếp tục thảo luận dự thảo "về phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005".
- Từ tháng 5/2000 đến tháng 7/2000: Các Bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 của Bộ, ngành, địa phương mình;
- Từ tháng 8/2000 đến tháng 12/2000: Bộ Kế hoạch Đầu tư tiến hành tổng hợp kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của các Bộ, địa phương thành kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001 - 2005 của cả nước và trình Chính phủ, Bộ Chính trị, Hội nghị Trung ương và Đại hội Đảng lần thứ IX.
- Năm 2001 Chính phủ sẽ trình Quốc hội thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của cả nước.
| Võ Hồng Phúc (Đã ký) |
- 1 Kế hoạch 961/KH-BHXH năm 2015 về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016-2020 của ngành Bảo hiểm xã hội
- 2 Nghị quyết 137/2007/NQ-HĐND về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010 của tỉnh Tiền Giang
- 3 Chỉ thị 26/2000/CT-TTg về nâng cao chất lượng xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 -2005 của các Bộ, ngành, địa phương do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 4 Chỉ thị 16/2000/CT-TTg về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 5 Chỉ thị 66/2000/CT-BNN-KH về việc xây dựng kế hoạch phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ lợi do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành
- 6 Nghị quyết về kế hoạch 5 năm 1996-2000 do Quốc Hội ban hành
- 7 Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991-1995 và năm 1992 do Quốc hội ban hành
- 1 Kế hoạch 961/KH-BHXH năm 2015 về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016-2020 của ngành Bảo hiểm xã hội
- 2 Nghị quyết 137/2007/NQ-HĐND về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010 của tỉnh Tiền Giang
- 3 Chỉ thị 26/2000/CT-TTg về nâng cao chất lượng xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 -2005 của các Bộ, ngành, địa phương do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 4 Chỉ thị 16/2000/CT-TTg về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 5 Nghị quyết về kế hoạch 5 năm 1996-2000 do Quốc Hội ban hành
- 6 Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991-1995 và năm 1992 do Quốc hội ban hành