HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 01-HĐTP | Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 1990 |
Việc áp dụng Điều 44 Bộ luật Hình sự về án treo đã được hướng dẫn ở một số văn bản như: Thông tư số 2308/NCPL ngày 1-12-1961; Thông tư số 01/NCPL ngày 6-4-1988; Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 và Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao... Tuy nhiên, việc có nhiều văn bản hướng dẫn về án treo như trên không thuận tiện cho việc áp dụng. Mặt khác, Điều 44 Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, nên một số hướng dẫn trước đây nay không còn phù hợp nữa.
Trong những năm gần đây, bên cạnh nhiều ưu điểm, ở các cấp Tòa án đều có những trường hợp áp dụng quy định về án treo không đúng, như đáng cho hưởng án treo thì lại phạt tù giam hoặc đáng phạt tù giam thì lại cho hưởng án treo. Có trường hợp đã cho hưởng án treo một cách tùy tiện, như đối với người tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm cũng cho hưởng án treo v.v...
Để khắc phục tình trạng nêu trên và để áp dụng Điều 44 Bộ luật Hình sự được đúng đắn, thống nhất, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
I. VỀ Ý NGHĨA CỦA QUY ĐỊNH VỀ ÁN TREO
Án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt tù không quá 5 năm, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải bất chấp hành hình phạt tù.
Án treo có tác dụng khuyến khích người bị kết án với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, tự lao động cải tạo để trở thành người lương thiện, đồng thời cảnh cáo họ là nếu trong thời gian thử thách mà phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý thì họ phải chấp hành hình phạt tù đã được hưởng án treo của bản án trước.
Án treo là một trong những biểu hiện cụ thể của phương châm "trừng trị kết hợp với giáo dục", và tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Áp dụng đúng đắn các quy định về án treo sẽ có tác dụng tốt là không bắt người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội mà cũng đạt được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội; nhưng nếu áp dụng không đúng thì sẽ gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt như: không phát huy được tác dụng tích cực của án treo là khuyến khích người bị kết án tự cải tạo để trở thành người tốt, không thể hiện được tính công minh của pháp luật, không được nhân dân đồng tình ủng hộ, không đề cao được tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
II. VỀ CĂN CỨ ĐỂ CHO NGƯỜI BỊ KẾT ÁN ĐƯỢC HƯỞNG ÁN TREO
Khoản 1 Điều 44 Bộ luật Hình sự quy định "Khi xử phạt tù không quá 5 năm (1), căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm".
Quy định trên được hiểu như sau:
1. Về mức hình phạt:
Chỉ những người bị phạt tù không quá 5 năm (1) mới có thể được xét việc cho hưởng án treo.
Luật không quy định về loại tội, cho nên nói chung người bị phạt tù không quá 5 năm về bất cứ tội phạm gì đều có thể được xem xét việc cho hưởng án treo nếu có đủ các căn cứ khác.
Đối với người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội hoặc có nhiều bản án mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá 5 năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo, nhưng phải xét thật chặt chẽ.
Khi quyết định mức hình phạt tù cần tránh các sai lầm sau đây:
a) Vì có ý định trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo, cho nên đáng lẽ phải phạt họ trên 5 năm tù thì lại chỉ phạt họ từ 5 năm tù trở xuống để cho hưởng án treo;
b) Vì có ý định trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo, cho nên đáng lẽ chỉ cần phạt tù họ với mức án thấp, thì lại phạt tù họ với mức án cao và cho hưởng án treo.
2. Về nhân thân:
a) Nói chung người được hưởng án treo phải là người chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của bản thân, chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, đối với người có tiền án, tiền sự, nếu xét tính chất của tiền án, tiền sự đó cùng với tính chất của tội phạm mới thực hiện và các căn cứ khác thấy không cần thiết phải bắt họ chấp hành hình phạt tù, thì cũng có thể cho họ được hưởng án treo, nhưng tinh thần chung là hạn chế và phải xét thật chặt chẽ.
b) Người đã được xóa án thì không coi là có tiền án. Người đã được xóa kỷ luật, xóa việc xử phạt vi phạm hành chính (tức là đã được coi như chưa bị kỷ luật, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính) thì không coi là có tiền sự. Đối với các quyết định xử lý của cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội mà pháp luật chưa quy định thời hạn để được coi như chưa bị xử lý, nếu tính từ ngày ra quyết định xử lý đến ngày phạm tội đã quá 1 năm, thì không coi là có tiền sự nữa. Đối với các quyết định xử lý của cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội mà pháp luật chưa quy định thời hạn để được coi như chưa bị xử lý, nếu tính từ ngày ra quyết định xử lý đến ngày phạm tội đã quá 1 năm, thì không coi là tiền sự nữa.
c) Khi xét về nhân thân của người phạm tội cần xét toàn diện tất cả các yếu tố thuộc về nhân thân, đồng thời kết hợp với thái độ của họ sau khi phạm tội và đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa chung để xem có cần phải bắt họ chấp hành hình phạt tù hay không. Những người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã ăn năn hối lỗi và thành khẩn nhận tội thì có nhiều khả năng tự cải tạo hơn các đối tượng khác, nên cần được xem xét để cho hưởng án treo.
3. Có nhiều tình tiết giảm nhẹ:
Các tình tiết giảm nhẹ đã được xem xét để quyết định hình phạt vẫn được xem xét cùng với các căn cứ khác để quyết định việc cho hoặc không cho hưởng án treo. Các tình tiết giảm nhẹ gồm các tình tiết đã được quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự và các tình tiết đã được hướng dẫn tại phần II Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như sau:
1) Bị cáo hoặc vợ, chồng, cha, mẹ, con bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác.
2) Bị cáo là người có nhiều thành tích trong sản xuất, chiến đấu, công tác đã được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng lao động sáng tạo, bằng khen của Chính phủ hoặc có sáng chế, phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sĩ thi đua.
3) Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, bố mẹ hoặc con (con đẻ hoặc con nuôi) là liệt sĩ.
4) Bị cáo là người tàn tật nặng do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác.
5) Bị cáo sau khi phạm tội đã lập công để chuộc tội.
6) Người bị hại cũng có lỗi.
4. Khi xét việc cho người bị kết án hưởng án treo, Hội đồng xét xử căn cứ vào mức hình phạt tù, nhân thân của người bị kết án và các tình tiết giảm nhẹ, phân tích từng căn cứ và đánh giá tổng hợp các căn cứ đó, đồng thời căn cứ vào yêu cầu phòng ngừa tội phạm để quyết định chính xác việc bắt người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù hay cho họ được hưởng án treo; tránh tình trạng cho người bị kết án hưởng án treo một cách thiếu căn cứ, không được nhân dân đồng tình và làm giảm tác dụng của án treo về giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Đối với người đã nhiều lần bị kết án, người bị phạt tù nhưng chưa được xóa án hoặc chưa quá 3 năm kể từ ngày được xóa án, người đã nhiều lần bị tập trung cải tạo hoặc đang bị tập trung cải tạo mà phạm tội cố ý hoặc tội nghiêm trọng do vô ý thì không cho hưởng án treo.
Đối với những người sau đây, việc xét cho hưởng án treo phải rất chặt chẽ (tinh thần chung là cần hạn chế việc cho hưởng án treo):
- Người đã bị phạt cảnh cáo, phạt tiền (là hình phạt chính), phạt cải tạo không giam giữ, cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, chưa được xóa án mà lại phạm tội mới do cố ý hoặc phạm tội mới nghiêm trọng do vô ý;
- Người đã bị tập trung cải tạo, trong thời gian chưa quá 3 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định tập trung cải tạo mà phạm tội như trên;
- Người có nhiều tiền sự hoặc có nhiều tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Hình sự mà phạm tội như trên.
III. VỀ THỜI GIAN THỬ THÁCH VÀ CÁCH TÍNH THỜI GIAN THỬ THÁCH CỦA ÁN TREO
1. Về thời gian thử thách của án treo
Theo khoản 1 Điều 44 Bộ luật Hình sự, thì thời gian thử thách của án treo là từ 1 năm đến 5 năm: bất cứ trường hợp nào cũng không được dưới 1 năm hoặc quá 5 năm và không được ít hơn mức hình phạt tù. Thời gian thử thách của án treo là bắt buộc, không được cho hưởng án treo mà lại miễn thời gian thử thách.
2. Cách tính thời gian thử thách của án treo
Để phát huy tác dụng phòng ngừa của án treo, tránh tình trạng người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm hoặc phạm tội mới trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm mà không bị coi là phạm tội trong thời gian thử thách, từ nay thời gian thử thách của án treo tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo; nếu có nhiều bản án cho hưởng án treo thì tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo. Nghĩa là: nếu Tòa án cấp sơ thẩm cho người bị kết án được hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; nếu Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm; nếu cả Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp giám đốc cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án giám đốc thẩm; nếu Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp giám đốc thẩm lại cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Khoản 5 Điều 44 Bộ luật Hình sự (đã được sửa đổi) quy định "Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý, thì Tòa án quyết định buộc họ phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42". Khoản 2 Điều 42 quy định như sau: "Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới. Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó cộng với hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất mà luật quy định cho loại hình phạt đã tuyên".
Khi áp dụng các quy định trên đây, cần chú ý một số điểm như sau:
1. Người được hưởng án treo mà trong thời gian thử thách đã phạm tội mới do cố ý, thì chứng tỏ họ đã không chịu cải tạo để trở thành người lương thiện, nên Tòa án cần áp dụng hình phạt tù đối với tội phạm mới và không được cho hưởng án treo một lần nữa, trừ trường hợp đối với tội phạm mới chỉ đáng phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. Mặt khác, đối với người được hưởng án treo mà trong thời gian thử thách lại phạm tội mới do cố ý thì tuy luật không cấm áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, nhưng nếu Tòa án áp dụng các loại hình phạt này thì theo quy định tại Điều 43 của Bộ luật Hình sự, Tòa án cũng vẫn phải chuyển đổi các loại hình phạt này thành hình phạt tù để tổng hợp với hình phạt tù của bản án trước mà người bị kết án đã được hưởng án treo. Do đó, Tòa án không áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội đối với người được hưởng án treo mà trong thời gian thử thách lại phạm tội mới do cố ý.
Đối với những người được hưởng án treo mà trong thời gian thử thách lại phạm tội mới do vô ý thì luật quy định là chỉ phải chấp hành hình phạt của bản án trước khi bị phạt tù về tội mới, do đó, nếu đối với tội mới chỉ đáng phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, thì Tòa án vẫn có thể áp dụng các loại hình phạt đó. Trong trường hợp này người bị kết án phải đồng thời chấp hành hai bản án. Nếu đối với tội mới cần phải phạt tù thì phải phạt tù và tổng hợp với hình phạt tù của bản án trước mà người bị kết án đã được hưởng án treo, tuyệt đối không được cho hưởng án treo một lần nữa.
2. Người được hưởng án treo chỉ phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước nếu trong thời gian thử thách họ đã phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý. Do đó, nếu trong thời gian thử thách, họ bị phạt tù về tội đã thực hiện trước khi bị phạt tù và được hưởng án treo thì tùy trường hợp, Tòa án có thể cho hoặc không cho hưởng án treo một lần nữa. Nếu Tòa án không cho hưởng án treo một lần nữa và người bị kết án chấp hành hình phạt tù trong thời gian thử thách của án treo thì thời gian chấp hành hình phạt tù được tính vào thời gian thử thách của án treo. Nếu cho người bị kết án được hưởng án treo một lần nữa, thì Tòa án tổng hợp hình phạt tù của hai bản án và ấn định thời gian thử thách chung cho cả 2 bản án. Trong trường hợp này cần chú ý là chỉ khi hình phạt chung của hai bản án không vượt quá 5 năm tù thì mới được cho hưởng án treo và thời gian thử thách chung cũng không dưới 1 năm, không được quá 5 năm và không được ít hơn mức hình phạt tù chung.
3. Trong trường hợp sau khi hết thời gian thử thách của án treo mới phát hiện được tội phạm đã được thực hiện trong thời gian thử thách, vì việc xét xử và tổng hợp hình phạt vẫn tiến hành như trường hợp tội phạm đó được phát hiện trong thời gian thử thách của án treo. Tòa án nào đã cấp giấy chứng nhận xóa án cho người bị kết án, thì Tòa án đó phải ra quyết định hủy giấy chứng nhận xóa án đã cấp sai.
4. Trong trường hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà họ đã được hưởng án treo và nếu họ đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam về tội cũ cũng như thời gian tạm giam về tội mới được khấu trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
V. VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚINGƯỜI ĐƯỢC HƯỞNG ÁN TREO
Theo khoản 3 Điều 44 Bộ luật Hình sự (đã được sửa đổi, bổ sung) thì "Người bị án treo có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung như phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định theo quy định ở Điều 23 và Điều 28 Bộ luật Hình sự.
Đối với các tội phạm mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt bổ sung là bắt buộc, thì ngoài hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 44, người được hưởng án treo còn phải chịu thêm hình phạt bổ sung bắt buộc đó. Thí dụ: Người phạm tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, nếu được hưởng án treo thì ngoài hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 44, còn phải chịu thêm hình phạt bổ sung theo quy định tại Điều 100 như tước một số quyền công dân, quản chế, cấm cư trú... Đối với các tội mà Bộ luật Hình sự quy định có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung, thì ngoài hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 44, người được hưởng án treo có thể phải chịu them hình phạt bổ sung theo quy định về hình phạt bổ sung của tội phạm mà họ đã thực hiện.
Trong trường hợp người được hưởng án treo phải chịu hình phạt bổ sung thì thời hạn chấp hành loại hình phạt bổ sung có thời hạn được tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo mà có hình phạt bổ sung.
VI. VIỆC GIAO NGƯỜI BỊ ÁN TREO CHO CƠ QUAN NHÀ NƯỚC HOẶC TỔ CHỨC XÃ HỘI THEO DÕI VÀ GIÁO DỤC
Khoản 2 Điều 44 Bộ luật Hình sự quy định: "Tòa án giao người bị án treo cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi và giáo dục".
Cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội theo quy định trên đây đã được khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cụ thể: đó là chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án thường trú hoặc làm việc. Do đó, khi quyết định cho người bị kết án được hưởng án treo. Toà án phải quyết địng giao người bị kết án cho cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội theo dõi, giáo dục. Nếu người bị kết án không phải là cán bộ, công nhân, viên chức, thì Tòa án giao cho ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó thường trú để theo dõi và giáo dục. Nếu người bị kết án là cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước, thì Tòa án giao người bị kết án cho cơ quan chủ quản và ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn theo dõi và giáo dục. Trong bản án không ghi tên cơ quan, tổ chức, địa phương được giao trách nhiệm theo dõi, giáo dục người được hưởng án treo, nhưng khi gửi bản sao bản án để thi hành án, thì Tòa án phải ghi rõ tên các cơ quan, tổ chức, địa phương đó. Trong trường hợp sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật mà người bị kết án bị cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội cho thôi việc, buộc thôi việc thì cơ quan, tổ chức đó phải thông báo cho Tòa án và chính quyền địa phương nơi người bị kết án thường trú biết. Trong trường hợp người bị kết án thuyên chuyển công tác đi nơi khác, thì cơ quan, tổ chức của người đó có trách nhiệm chuyển bản sao bản án cho cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án đến làm việc để cơ quan, tổ chức này theo dõi và giáo dục người bị kết án. Nếu người bị kết án chuyển nơi thường trú đến địa điểm khác thì Uỷ ban nhân dân chuyển bản sao bản án cho ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án đến thường trú để theo dõi, giáo dục, đồng thời thông báo cho Tòa án biết về việc đó.
Trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã phạt tù và cho hưởng án treo, nếu bản án đó không bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo hướng tăng hình phạt, tăng thời gian thử thách của án treo thì Tòa án cấp phúc thẩm không được:
- Tăng mức hình phạt tù;
- Tăng thời gian thử thách của án treo;
- Phạt tù mà không cho hưởng án treo (kể cả trường hợp giảm mức hình phạt tù).
Trong các trường hợp này, nếu Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo không đúng hoặc xử quá nhẹ thì sau khi xét xử phúc thẩm cần báo cáo với Tòa án cấp giám đốc thẩm để xem xét bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.
VIII. VỀ GIẢM THỜI GIAN THỬ THÁCH
Theo khoản 4 Điều 44 Bộ luật Hình sự thì "nếu người bị án treo đã chấp hành được một nửa thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo dõi, giáo dục, Tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách".
1. Cơ sở để xét rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo là văn bản đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo dõi, giáo dục người bị kết án. Cho nên trong hồ sơ đề nghị xét giảm thời gian thử thách án treo cho người bị kết án phải có văn bản đề nghị hoặc nhận xét của cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ theo dõi, giáo dục người bị kết án.
2. Tòa án có thẩm quyền xét giảm thời gian thử thách cho người được hưởng án treo là Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự khu vực nơi người bị kết án chịu thử thách (theo đoạn 2 khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng hình sự).
3. Thủ tục xét giảm thời gian thử thách cho người được hưởng án treo đã được quy định tại khoản 3 Điều 238 Bộ luật Tố tụng hình sự như sau: "Một thành viên của Tòa án trình bày vấn đề cần được xem xét, đại diện Viện kiểm soát phát biểu ý kiến, Tòa án ra quyết định chấp nhận hoặc bác đề nghị rút ngắn thời gian thử thách". Hội đồng xét giảm thời gian thử thách cho người được hưởng án treo có thể gồm 3 thẩm phán hoặc hai thẩm phán và một hội thẩm nhân dân.
4. Sau khi người bị kết án đã chấp hành được một nửa thời gian thử thách, nếu có nhiều tiến bộ thì được xét giảm thời gian thử thách. Mỗi lần được giảm không quá 12 tháng. Nếu đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền xã, phường, thị trấn không được Tòa án chấp nhận, thì khi người bị kết án có tiến bộ mới, các cơ quan, tổ chức nói trên có quyền tiếp tục đề nghị Tòa án xét giảm thời gian thử thách cho người bị kết án.
IX. VIỆC ĐƯƠNG NHIÊN XÓA ÁN ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐƯỢC HƯỞNG ÁN TREO
Theo khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự (đã được sửa đổi, bổ sung) thì người được hưởng án treo được đương nhiên xóa án nếu không phạm tội mới trong thời hạn ba năm kể từ ngày hết thời gian thử thách. Tuy nhiên, vì Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự có hiệu lực từ ngày 2-1-1990, cho nên những người được hưởng án treo mà thời gian thử thách đã hết trước ngày 2-1-1990 thì được đương nhiên xóa án nếu họ không phạm tội mới trong thời gian thử thách của án treo. Trong trường hợp sau ngày 2-1-1990 họ mới đến xin giấy chứng nhận xóa án, thì Tòa án vẫn cấp giấy chứng nhận xóa án cho họ theo thủ tục đương nhiên xóa án được hướng dẫn tại mục III Thông tư liên ngành số 02/TT-LN ngày 1-8-1986 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ. Còn những người được hưởng án treo trước ngày 2-1-1990, nhưng đến hết ngày 1-1-1990 vẫn chưa hết thời gian thử thách, thì họ chỉ được đương nhiên xóa án nếu không phạm tội mới trong thời hạn ba năm kể từ ngày hết thời gian thử thách của án treo, theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự (đã được sửa đổi, bổ sung).
Nghị quyết này thay thế tất cả những hướng dẫn trước đây của Tòa án nhân dân tối cao về án treo.
Nguyễn Văn Hiện (Đã ký) |
- 1 Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ về việc hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ Luật Hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- 2 Nghị quyết số 02-HĐTP/NQ về việc hướng dẫn bổ sung nghị quyết số 02-HĐTP ngày 05/01/1986 do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- 3 Bộ luật tố tụng hình sự 1988
- 4 Thông tư 01-TAND/TT-1988 về án treo theo điều 44 Bộ Luật Hình sự do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- 5 Chỉ thị 01/NCPL năm 1987 về việc xét xử và thi hành án đối với các khoản bồi thường, bồi hoàn, thanh toán tài sản, cấp dưỡng trong các bản án hình sự và dân sự do Toà án nhân dân tối cao ban hành
- 6 Thông tư liên ngành 02/TTLN năm 1986 về việc xoá án do Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ ban hành
- 7 Bộ luật Hình sự 1985